Thủ thuật SEO SEO mũ trắng

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2010

SSDG-Trắc nghiệm và rèn luyện trí thông minh

IQ là gì? IQ là ký hiệu lấy hai chữ cái đầu của từ tiếng Anh là “Intelligence Quotient”, thường dịch là thương số trí tuệ hay còn gọi là chỉ số thông minh. Chỉ số này của mỗi người nói lên năng lực trí tuệ của người đó. Để có phương pháp đo IQ một cách khoa học, ta cần tìm hiểu định nghĩa thuật ngữ “trí thông minh”.
Ebook gồm 12 phần:
Phần 01: Tìm hiểu về IQ và thiên tài
Phần 02: Tìm hiểu các hình thái của trí thông minh
Phần 03: Giới thiệu các yếu tố của trí thông minh
Phần 04: Những khả năng xác định trí thông minh
Phần 05: kiểm tra thương số trí tuệcủa bạn
Phần 06: Tự khám phá chỉ số thông minh của bạn


Phần 07: Truyện kể về những người thông minh tài giỏi
Phần 08: Cách giúp bạn luyện tập trí thông minh
Phần 09: Những trò chơi lạ đòi hỏi trí thông minh
Phần 10: Mục đố vui thông minh
Phần 11: Mục thử tài thông minh hấp dẫn
Phần 12: Thư giãn với nhiều bài hát hay
Bản quyền thuộc về SSDG – Nhóm Phát Triển Phần Mềm Sinh Viên Học Sinh. Nếu có điều kiện, bạn hãy mua phần mềm có bản quyền.
http://www.mediafire.com/?m7rn03pmud9eyqa
http://www.mediafire.com/?lqc2bz21lbsl0bb
http://www.mediafire.com/?rmjjjy4ew8032gh
IQ là gì? IQ là ký hiệu lấy hai chữ cái đầu của từ tiếng Anh là “Intelligence Quotient”, thường dịch là thương số trí tuệ hay còn gọi là chỉ số thông minh. Chỉ số này của mỗi người nói lên năng lực trí tuệ của người đó. Để có phương pháp đo IQ một cách khoa học, ta cần tìm hiểu định nghĩa thuật ngữ “trí thông minh”.
Ebook gồm 12 phần:
Phần 01: Tìm hiểu về IQ và thiên tài
Phần 02: Tìm hiểu các hình thái của trí thông minh
Phần 03: Giới thiệu các yếu tố của trí thông minh
Phần 04: Những khả năng xác định trí thông minh
Phần 05: kiểm tra thương số trí tuệcủa bạn
Phần 06: Tự khám phá chỉ số thông minh của bạn


Phần 07: Truyện kể về những người thông minh tài giỏi
Phần 08: Cách giúp bạn luyện tập trí thông minh
Phần 09: Những trò chơi lạ đòi hỏi trí thông minh
Phần 10: Mục đố vui thông minh
Phần 11: Mục thử tài thông minh hấp dẫn
Phần 12: Thư giãn với nhiều bài hát hay
Bản quyền thuộc về SSDG – Nhóm Phát Triển Phần Mềm Sinh Viên Học Sinh. Nếu có điều kiện, bạn hãy mua phần mềm có bản quyền.
http://www.mediafire.com/?m7rn03pmud9eyqa
http://www.mediafire.com/?lqc2bz21lbsl0bb
http://www.mediafire.com/?rmjjjy4ew8032gh

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2010

Tự làm một đĩa boot mạng

Chắc có lẽ chúng ta khi thiết lập một hệ thống mạng đều ngại nhất là công việc cài đặt hệ điều hành cho từng máy trong mạng.Nếu chúng ta không biết sắp xếp công việc thì việc cài đặt sẽ chiếm rất nhiều thời gian và công sức,có khi hiệu quả đạt được không cao.
Giả sử chúng ta phải thiết lập một hệ thống mạng gồm 1 máy Server và 30 máy Client.Yêu cầu cho việc cài đặt:
-Server sử dụng Windows 2000 Server(hay NT 4.0 Server).
-Các Client sử dụng Windows 2000 Pro hay 1 hệ điều hành nào khác.
Hướng giải quyết công việc:
-Cách 1:Chúng ta phải cài đặt cho từng máy:cài Server trước sau đó cài đặt cho từng Client trong mạng.Quá
mất thời gian và chi phí cao do mỗi Client đều phải cần 1 ổ đĩa CD-Rom.
-Cách 2:Sử dụng công nghệ RIS(Remote Installation Service).Cách này thực sự hữu ích tuy nhiên có 1 nhược điểm là Server phải sử dụng hệ điều hành Windows 2000 Server,các Client chỉ có thể cài đặt hệ điều hành Windows 2000 Pro và card mạng phải hỗ trợ Rom Boot theo chuẩn PXE.Tuy nhiên không phải card mạng nào cũng hỗ trợ Rom Boot.Trong trường hợp đó thì RIS không phải là cách hay.
-Cách 3:Chúng ta sẽ tiến hành làm 1 đĩa mềm có thể Boot mạng từ DOS.Sau đó chúng ta sẽ cho các máy Client cài đặt hệ điều hành từ source trên Server. Đây thực sự là 1 cách hữu ích.Bởi vì yêu cầu về phần cứng không cao và các máy Client có thể cài đặt bất kỳ hệ điều hành nào.
Ở đây chúng ta có 2 cách để tạo đĩa Boot mạng.Một là sử dụng Norton Ghost 2003,hai là sử dụng tiện ích NETSETUP trong bộ đĩa cài đặt Windows NT 4.0 Server (mở đĩa Windows NT 4.0 Server vào ..\CLIENTS\MSCLIENT\NETSETUP chạy file Setup.exe).Trong bài này tôi xin giới thiệu phương pháp làm đĩa Boot mạng sử dụng phần mềm Norton Ghost 2003.
Làm đĩa Boot mạng sử dụng Norton Ghost 2003:
Trước hết chúng ta phải cài đặt hệ điều hành cho Server. Ở đây Server sẽ sử dụng Windows 2000 Server.Kế tiếp chúng ta phải nâng cấp lên Active Directory(vào Start\Run\DCPROMO rồi enter).Sau khi nâng cấp lên Active Directory chúng ta phải cấu hình DNS Server và DHCP Server để Server cấp phát IP cho các Client.
Kế đó chúng ta sẽ tạo user để sử dụng cho việc Boot mạng từ DOS. Ở đây chúng ta phải tạo một thư mục để chép bộ Source cài đặt hệ điều hành (có thể sử dụng file Ghost của bất kỳ hệ điều hành nào).Thư mục này phải được share để cho các Client khi Boot vào mạng có thể truy cập được.
Cuối cùng là chúng ta tiến hành cài đặt Norton Ghost 2003 (lưu ý là chỉ có phiên bản 2003 mới hỗ trợ việc làm đĩa Boot mạng).Sau khi cài đặt xong chúng ta mở Norton Ghost 2003 lên,như hình bên dưới:
Chúng ta chọn mục Ghost Utilities.Bảng Norton Ghost Boot Wizard xuất hiện:
Kế tiếp chúng ta chọn tiếp “Drive Mapping Boot Disk”,rồi Click Next.
Ở bảng này chúng ta sẽ thấy các Driver card mạng được hỗ trợ để làm đĩa Boot.Nếu chúng ta sử dụng 1 loại card mạng khác không có trong mục này,chúng ta có thể chọn nút Add để bổ sung thêm.Click Next để tiếp tục.
Click Next để tiếp tục.
Kế tiếp bảng Norton Ghost Boot Wizard-Network Client Configuration xuất hiện.Chúng ta cần điền đầy đủ cho các mục này.
-Client Computer Name:tên máy Client.
-User name:tên người sử dụng,có thể sử dụng tên Administrator hay chúng ta phải tạo 1 tài khoản riêng(sử dụng Server để tạo tài khoản người dùng).
-Domain:tên domain sau khi chúng ta đã nâng cấp lên Active Directory.
-Drive Letter:tên ổ đĩa mà Server đã chép Source cài đặt và share trên mạng.
-Map To: đường dẫn đến thư mục mà Server đã share.
Click Next tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuât hiện,hỏi chúng ta cấp phát địa chỉ IP bằng dịch vụ DHCP hoặc cấp phát bằng tay. Ở đây do chúng ta đã cài đặt DHCP Server nên chúng ta chọn:”DHCP will assign the IP settings”.Click Next để tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuất hiện,chúng ta chọn các thông số cho phù hợp rồi Click Next.
Bảng trên sẽ cho chúng ta xem rõ chi tiết của các file như Autoxec.bat hay Config.sys.Click Next để cho công việc tạo đĩa bắt đầu.Cuối cùng là nhấn Finish để hoàn thành việc tạo đĩa.
Sau khi hoàn thành,chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cài đặt 1 hệ thống mạng mà không phải tốn nhiều thời gian và công sức cũng như tiền bạc.Chúc các bạn thành công.
Chắc có lẽ chúng ta khi thiết lập một hệ thống mạng đều ngại nhất là công việc cài đặt hệ điều hành cho từng máy trong mạng.Nếu chúng ta không biết sắp xếp công việc thì việc cài đặt sẽ chiếm rất nhiều thời gian và công sức,có khi hiệu quả đạt được không cao.
Giả sử chúng ta phải thiết lập một hệ thống mạng gồm 1 máy Server và 30 máy Client.Yêu cầu cho việc cài đặt:
-Server sử dụng Windows 2000 Server(hay NT 4.0 Server).
-Các Client sử dụng Windows 2000 Pro hay 1 hệ điều hành nào khác.
Hướng giải quyết công việc:
-Cách 1:Chúng ta phải cài đặt cho từng máy:cài Server trước sau đó cài đặt cho từng Client trong mạng.Quá
mất thời gian và chi phí cao do mỗi Client đều phải cần 1 ổ đĩa CD-Rom.
-Cách 2:Sử dụng công nghệ RIS(Remote Installation Service).Cách này thực sự hữu ích tuy nhiên có 1 nhược điểm là Server phải sử dụng hệ điều hành Windows 2000 Server,các Client chỉ có thể cài đặt hệ điều hành Windows 2000 Pro và card mạng phải hỗ trợ Rom Boot theo chuẩn PXE.Tuy nhiên không phải card mạng nào cũng hỗ trợ Rom Boot.Trong trường hợp đó thì RIS không phải là cách hay.
-Cách 3:Chúng ta sẽ tiến hành làm 1 đĩa mềm có thể Boot mạng từ DOS.Sau đó chúng ta sẽ cho các máy Client cài đặt hệ điều hành từ source trên Server. Đây thực sự là 1 cách hữu ích.Bởi vì yêu cầu về phần cứng không cao và các máy Client có thể cài đặt bất kỳ hệ điều hành nào.
Ở đây chúng ta có 2 cách để tạo đĩa Boot mạng.Một là sử dụng Norton Ghost 2003,hai là sử dụng tiện ích NETSETUP trong bộ đĩa cài đặt Windows NT 4.0 Server (mở đĩa Windows NT 4.0 Server vào ..\CLIENTS\MSCLIENT\NETSETUP chạy file Setup.exe).Trong bài này tôi xin giới thiệu phương pháp làm đĩa Boot mạng sử dụng phần mềm Norton Ghost 2003.
Làm đĩa Boot mạng sử dụng Norton Ghost 2003:
Trước hết chúng ta phải cài đặt hệ điều hành cho Server. Ở đây Server sẽ sử dụng Windows 2000 Server.Kế tiếp chúng ta phải nâng cấp lên Active Directory(vào Start\Run\DCPROMO rồi enter).Sau khi nâng cấp lên Active Directory chúng ta phải cấu hình DNS Server và DHCP Server để Server cấp phát IP cho các Client.
Kế đó chúng ta sẽ tạo user để sử dụng cho việc Boot mạng từ DOS. Ở đây chúng ta phải tạo một thư mục để chép bộ Source cài đặt hệ điều hành (có thể sử dụng file Ghost của bất kỳ hệ điều hành nào).Thư mục này phải được share để cho các Client khi Boot vào mạng có thể truy cập được.
Cuối cùng là chúng ta tiến hành cài đặt Norton Ghost 2003 (lưu ý là chỉ có phiên bản 2003 mới hỗ trợ việc làm đĩa Boot mạng).Sau khi cài đặt xong chúng ta mở Norton Ghost 2003 lên,như hình bên dưới:
Chúng ta chọn mục Ghost Utilities.Bảng Norton Ghost Boot Wizard xuất hiện:
Kế tiếp chúng ta chọn tiếp “Drive Mapping Boot Disk”,rồi Click Next.
Ở bảng này chúng ta sẽ thấy các Driver card mạng được hỗ trợ để làm đĩa Boot.Nếu chúng ta sử dụng 1 loại card mạng khác không có trong mục này,chúng ta có thể chọn nút Add để bổ sung thêm.Click Next để tiếp tục.
Click Next để tiếp tục.
Kế tiếp bảng Norton Ghost Boot Wizard-Network Client Configuration xuất hiện.Chúng ta cần điền đầy đủ cho các mục này.
-Client Computer Name:tên máy Client.
-User name:tên người sử dụng,có thể sử dụng tên Administrator hay chúng ta phải tạo 1 tài khoản riêng(sử dụng Server để tạo tài khoản người dùng).
-Domain:tên domain sau khi chúng ta đã nâng cấp lên Active Directory.
-Drive Letter:tên ổ đĩa mà Server đã chép Source cài đặt và share trên mạng.
-Map To: đường dẫn đến thư mục mà Server đã share.
Click Next tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuât hiện,hỏi chúng ta cấp phát địa chỉ IP bằng dịch vụ DHCP hoặc cấp phát bằng tay. Ở đây do chúng ta đã cài đặt DHCP Server nên chúng ta chọn:”DHCP will assign the IP settings”.Click Next để tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuất hiện,chúng ta chọn các thông số cho phù hợp rồi Click Next.
Bảng trên sẽ cho chúng ta xem rõ chi tiết của các file như Autoxec.bat hay Config.sys.Click Next để cho công việc tạo đĩa bắt đầu.Cuối cùng là nhấn Finish để hoàn thành việc tạo đĩa.
Sau khi hoàn thành,chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cài đặt 1 hệ thống mạng mà không phải tốn nhiều thời gian và công sức cũng như tiền bạc.Chúc các bạn thành công.

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2010

Ngôn ngữ Python là gì ? ( Bài 2: Lịch sử phát triển của Python.)

II. Lịch sử phát triển của Python.
Sự phát triển Python đến nay có thể chia làm các giai đoạn:
  • Python 1: bao gồm các bản phát hành 1.x. Giai đoạn này, kéo dài từ đầu đến cuối thập niên 1990. Từ năm 1990 đến 1995, Guido làm việc tại CWI (Centrum voor Wiskunde en Informatica - Trung tâm Toán-Tin học) tại Amsterdam, Hà Lan. Vì nguyên nhân này, các phiên bản Python đầu tiên đều do CWI phát hành. Phiên bản cuối cùng phát hành tại CWI là 1.2.
    • Vào năm 1995, Guido chuyển sang Corporation for National Research Initiatives (CNRI) ở Reston, Virginia. Tại đây, ông phát hành một số phiên bản khác. Python 1.6 là phiên bản cuối cùng phát hành tại CNRI.
    • Sau bản phát hành 1.6, Guido rời bỏ CNRI để làm việc với các lập trình viên chuyên viết phần mềm thương mại. Tại đây, ông có ý tưởng sử dụng Python với các phần mềm tuân theo chuẩn GPL. Sau đó, CNRI và Free Software Foundation (FSF) đã cùng nhau hợp tác để làm bản quyền Python phù hợp với GPL. Cùng năm đó, Guido được nhận giải thưởng FSF Award for the Advancement of Free Software.
    • Phiên bản 1.6.1 ra đời sau đó là phiên bản đâu tiền tuân theo bản quyền GPL. Tuy nhiên, bản này hoàn toàn giống bản 1.6, trừ một số sửa lỗi cần thiết.
  • Python 2: Vào năm 2000, Guido và nhóm phát triển Python dời đến BeOpen.com và thành lập BeOpen PythonLabs team. Phiên bản Python 2.0 được phát hành tại đây. Sau khi phát hành Python 2.0, Guido và các thành viên PythonLabs gia nhập Digital Creations.
    • Python 2.1 ra đời kế thừa từ Python 1.6.1 và Python 2.0. Bản quyền của phiên bản này được đổi thành Python Software Foundation License. Từ thời điểm này trở đi, Python thuộc sở hữu của Python Software Foundation (PSF), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập theo mẫu Apache Software Foundation.
  • Python 3: Về sự phát triển của Python trong tương lai, các nhà phát triển vẫn đang thảo luận về phiên bản mới: Python 3.0 (dự án gọi là Python 3000 hoặc Py3K). Dự kiến, dòng 3.x sẽ không hoàn toàn tương thích với dòng 2.x. Nhóm phát triển cho biết sẽ lấp những chỗ hở của ngôn ngữ. Nguyên tắc chủ đạo để phát triển Python 3.x là "bỏ cách làm việc cũ nhằm hạn chế trùng lặp về mặt chức năng của Python". Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kế hoạch cụ thể cho phát triển Python 3.

II. Lịch sử phát triển của Python.
Sự phát triển Python đến nay có thể chia làm các giai đoạn:
  • Python 1: bao gồm các bản phát hành 1.x. Giai đoạn này, kéo dài từ đầu đến cuối thập niên 1990. Từ năm 1990 đến 1995, Guido làm việc tại CWI (Centrum voor Wiskunde en Informatica - Trung tâm Toán-Tin học) tại Amsterdam, Hà Lan. Vì nguyên nhân này, các phiên bản Python đầu tiên đều do CWI phát hành. Phiên bản cuối cùng phát hành tại CWI là 1.2.
    • Vào năm 1995, Guido chuyển sang Corporation for National Research Initiatives (CNRI) ở Reston, Virginia. Tại đây, ông phát hành một số phiên bản khác. Python 1.6 là phiên bản cuối cùng phát hành tại CNRI.
    • Sau bản phát hành 1.6, Guido rời bỏ CNRI để làm việc với các lập trình viên chuyên viết phần mềm thương mại. Tại đây, ông có ý tưởng sử dụng Python với các phần mềm tuân theo chuẩn GPL. Sau đó, CNRI và Free Software Foundation (FSF) đã cùng nhau hợp tác để làm bản quyền Python phù hợp với GPL. Cùng năm đó, Guido được nhận giải thưởng FSF Award for the Advancement of Free Software.
    • Phiên bản 1.6.1 ra đời sau đó là phiên bản đâu tiền tuân theo bản quyền GPL. Tuy nhiên, bản này hoàn toàn giống bản 1.6, trừ một số sửa lỗi cần thiết.
  • Python 2: Vào năm 2000, Guido và nhóm phát triển Python dời đến BeOpen.com và thành lập BeOpen PythonLabs team. Phiên bản Python 2.0 được phát hành tại đây. Sau khi phát hành Python 2.0, Guido và các thành viên PythonLabs gia nhập Digital Creations.
    • Python 2.1 ra đời kế thừa từ Python 1.6.1 và Python 2.0. Bản quyền của phiên bản này được đổi thành Python Software Foundation License. Từ thời điểm này trở đi, Python thuộc sở hữu của Python Software Foundation (PSF), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập theo mẫu Apache Software Foundation.
  • Python 3: Về sự phát triển của Python trong tương lai, các nhà phát triển vẫn đang thảo luận về phiên bản mới: Python 3.0 (dự án gọi là Python 3000 hoặc Py3K). Dự kiến, dòng 3.x sẽ không hoàn toàn tương thích với dòng 2.x. Nhóm phát triển cho biết sẽ lấp những chỗ hở của ngôn ngữ. Nguyên tắc chủ đạo để phát triển Python 3.x là "bỏ cách làm việc cũ nhằm hạn chế trùng lặp về mặt chức năng của Python". Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kế hoạch cụ thể cho phát triển Python 3.

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2010

Quyển sách cho ai thích viễn tưởng :The 100 next years

Vừa rồi bạn nào quan tâm có thể thấy BáoĐấtViệt có đăng bài về sự dự đoán của George Friedman.Đọc mới nhớ lại là có ebook đó,nên hôm nay chia sẻ.Tuần Việt Nam đã đăng và điểm qua cuốn sách, giới thiệu nhiều góc nhìn qua một số bài viết và trích dịch những đoạn phân tích của Friedman.Có vẽ thú vị cho những ai thích khoa học viễn tưởng đấy.Nghe cứ như nhà tiên tri VanGa nhỉ
Download:Downloads
Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ liên minh chống Mỹ. Ngược lại, Ba Lan lại trở
thành đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Mexico giành được trung tâm thế giới, chiến tranh thế giới thứ III diễn ra trong không gian. Nghe có vẻ lạ ư? Tất cả đều có thể xảy ra…
Dù xuất bản từ khá lâu, “100 next years” của Friedman đưa ra những dự báo mạnh bạo nhưng có cơ sở rõ ràng vẫn được nhiều bạn đọc đánh giá cao.Vào năm 1492, Columbus dẫn đoàn thuyền đi về phía Tây. Năm 1991, Liên Xô tan rã. Cả hai sự kiện này tạo nên một thời đại của châu Âu.
Người Maya từng sống mà không quan tâm đến người Mông Cổ – những người không biết đến Zulus. Kể từ thế kỷ 15, những cường quốc châu Âu mở rộng quyền lực ra khắp thế giới, tạo nên một hệ thống địa chính trị toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử loài người, tính đến thời điểm mà số phận của những thổ dân Australia bị đặt dưới những chính sách của người Anh ở Ireland và giá bánh mỳ của Pháp phụ thuộc vào thời tiết ở Minnesota.
Châu Âu đồng thời tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài 500 năm với sự gia tăng của nạn bạo lực trong quần chúng, cho đến thế kỉ 20, khi chính Âu châu tự chia tách và đánh mất quyền kiểm soát thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, không còn quốc gia nào có thể xem là một cường quốc toàn cầu bậc nhất nữa.
Còn một sự kiện chưa từng có khác diễn ra khoảng một thập kỷ trước đó. Trong suốt 500 năm, quốc gia nào kiểm soát được Bắc Đại Tây Dương cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát cửa ngõ ra thế giới của châu Âu, cùng với nó là kiểm soát thương mại toàn cầu.
Đến năm 1980, địa thương mại chuyển hướng khiến Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trở nên quan trọng không kém. Mọi cường quốc thông trực tiếp với hai đại dương này đều có được những lợi thế đặc biệt. Bắc Mỹ trở thành trục của hệ thống toàn cầu, và bất kì cường quốc nào thống trị Bắc Mỹ cũng trở thành trung tâm hấp dẫn. Tất nhiên, cường quốc đó chính là Mỹ.
Vị trí địa lý cùng với khả năng tận dụng nó tạo nên những lợi thế kể trên. Nhờ vị trí địa lý, nước Mỹ không bị đe dọa bởi những cuộc tấn công cả ở đất liền và trên biển. Tuy dễ bị tấn công khủng bố nhưng nó nằm ngoài tầm hạt nhân, không phải chịu bất cứ đe dọa nào như Anh và Pháp hồi năm 1940 – 41, hay như Đức và Nhật Bản năm 1944 – 45.
Một phần lợi thế của nó là nhờ đứng trung lập với những nước tham chiến khiến Mỹ thực sự được hưởng lợi từ Thế chiến thứ 2. Nhờ vậy, Mỹ nổi lên với nền tảng hiện đại hóa công nghiệp triệt để.
Lịch sử chứng minh có những điều người ta từng nghĩ là không thể thì hoàn toàn có thể xảy ra. Và nếu chú ý quan sát, có thể thấy tất cả những “điều không tưởng” kia đều có những nguồn gốc lịch sử và địa chính trị rõ ràng như phân tích. Đây chính là cơ sở của Friedman khi viết cuốn sách dự đoán về những sự kiện đầy bất ngờ sẽ xảy ra trong thế kỷ 21.
Friedman đưa ra các chỉ số nói lên khả năng tiếp tục thống trị của Mỹ – chủ yếu bởi nước Mỹ có vị trí trung tâm được bao quanh bởi hai đại dương lớn và hải Quân Mỹ có sự kiểm soát tối cao trên khắp các vùng biển thế giới. Chiến tranh vào cuối thế kỷ 21 sẽ là để tranh giành quyền kiểm soát không gian, nhưng Mỹ vẫn sẽ dẫn đầu, Friedman nhận định.
Xung đột tiếp tục nhưng không trên quy mô như hai cuộc thế chiến trước đây. Theo Friedman, nước Mỹ không thực sự quan tâm đến việc liệu nó có thắng khi tham chiến không. Mỹ chỉ quan tâm đến việc đảm bảo các quốc gia liên minh sẽ không thách thức nước này. Và Mỹ vẫn đang kiểm soát rất tốt tình hình.
Theo Friedman, chiến tranh giữa Mỹ và thế giới Hồi giáo sẽ gần như chấm dứt, không phải nhờ vị Tổng thống mới Barack Obama, mà bởi al-Qaeda sắp tan vỡ. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga sẽ xảy ra vào những năm 2020 nhưng khác với quy mô chiến tranh lạnh của thế kỉ trước.
Vào những năm 20, Friedman nhận định, Trung Quốc sẽ bị phân cách do các tỉnh nội địa của nó ngày càng nghèo hơn và các tỉnh ven biển sẽ giàu có hơn nhờ thương mại thế giới. Chính phủ cố gắng kiểm soát tình trạng này, tuy nhiên những khu vực ven biển sẽ nhận được sự hỗ trợ của các đối tác thương mại toàn cầu của họ.
Vào những năm 30, Mỹ sẽ đối diện với một cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ, trầm trọng hơn bởi lớp người trẻ đều nghỉ hưu và sự thiếu hụt dân số thế giới. Thay vì hạn chế nhập cư, Friedman dự đoán Mỹ sẽ trả tiền cho những người nhập cư. Ông lập luận Mỹ sẽ lại nổi lên mạnh mẽ hơn về tài chính sau khủng hoảng như tất cả những lần khủng hoảng trước đó.
Vào những năm 40, xuất hiện ba cường quốc mới là Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan, cũng giống như sự nổi lên của Đức, Ý, Nhật vào thế kỷ 19. Nhật sẽ nỗ lực kiểm soát Thái Bình Dương. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là nước mạnh nhất trong cộng đồng Hồi giáo và Ba Lan sẽ xây dựng lại phần Đông Âu sau khi Liên Bang Nga sụp đổ. Lợi ích của Mỹ lúc này bị đe dọa bởi Nhật và Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đến một cuộc thế chiến vào những năm 50.
Tuy nhiên, Friedaman cũng cho rằng, Thế chiến thứ 3 sẽ không xảy ra như hai cuộc thế chiến trước đây: Nó sẽ bắt đầu bằng những cuộc tấn công vào các trạm không gian của quân đội Mỹ
Mỹ sẽ trả đũa những cuộc tấn công đó bằng vũ khí siêu thanh. Sau khoảng hai năm chiến tranh, Mỹ và nước đồng minh Ba Lan cuối cùng giành được chiến thắng.
Sau chiến tranh, Mỹ sẽ bước vào một cuộc đột phá lớn về công nghệ, tương tự như những năm 1950 nhằm tìm cách ngăn chặn xảy ra chiến tranh.
Kết quả lớn nhất thu được là phát minh ra những công cụ khai thác năng lượng từ không gian. Những tiến bộ trong công nghệ rô bốt và những công nghệ khác cũng sẽ giúp đảm bảo vị trí thống trị của Mỹ.
Friedman xếp Mỹ vào quốc gia “chưa trưởng thành”, giống như một trẻ vị thành niên với một cuộc khủng hoảng bản sắc. Ông không có ý chê bai. Mà bởi Mỹ chỉ mới 200 tuổi, trong khi lịch sử của các quốc gia châu Âu và châu Á ghi niên đại đến hàng thế kỷ.
Không đưa ra những cái tên cụ thể, Friedman chọn ra một vài nhận định khoa học viễn tưởng và một vài thể loại khác để đưa vào những dự đoán của mình. Ví dụ, vũ khí đá mặt trăng được ông dự báo giống với Robert A. Heinlein trong cuốn “The Moon is a Harsh Mistress”. Ông cũng có cùng ý tưởng lấy năng lượng mặt trời từ không gian của Heinlein và Lee Correy.
Friedman kết luận, có thể trật tự địa chính trị sẽ bị hoán đổi một lần nữa, và kỷ nguyên của Mỹ sẽ kết thúc. Sức mạnh Mỹ thậm chí sẽ suy yếu sớm hơn nữa. Tuy nhiên chưa phải trong thế kỷ này.
Nhiều cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp quốc tế đăng ký dịch vụ của mạng nghiên cứu dự báo chiến lược Stratfor, chủ yếu bởi những dự đoán chính xác của Friedman. “100 next years” (tạm dịch: 100 năm tới) không kỳ vọng phải hoàn toàn chính xác. Friedman có ghi chú rằng “cái gì càng chi tiết thì càng nhiều khả năng sai.”
Friedman không khoe khoang, ông chỉ đưa những kiến thức địa chính trị của mình vào quả cầu pha lê tiên tri mà thôi. Dù sao khi xét lại những dự đoán chính xác trước đây của ông, thì những gì Friedman dự đoán vẫn rất đáng để lắng nghe.
Vừa rồi bạn nào quan tâm có thể thấy BáoĐấtViệt có đăng bài về sự dự đoán của George Friedman.Đọc mới nhớ lại là có ebook đó,nên hôm nay chia sẻ.Tuần Việt Nam đã đăng và điểm qua cuốn sách, giới thiệu nhiều góc nhìn qua một số bài viết và trích dịch những đoạn phân tích của Friedman.Có vẽ thú vị cho những ai thích khoa học viễn tưởng đấy.Nghe cứ như nhà tiên tri VanGa nhỉ
Download:Downloads
Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ liên minh chống Mỹ. Ngược lại, Ba Lan lại trở
thành đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Mexico giành được trung tâm thế giới, chiến tranh thế giới thứ III diễn ra trong không gian. Nghe có vẻ lạ ư? Tất cả đều có thể xảy ra…
Dù xuất bản từ khá lâu, “100 next years” của Friedman đưa ra những dự báo mạnh bạo nhưng có cơ sở rõ ràng vẫn được nhiều bạn đọc đánh giá cao.Vào năm 1492, Columbus dẫn đoàn thuyền đi về phía Tây. Năm 1991, Liên Xô tan rã. Cả hai sự kiện này tạo nên một thời đại của châu Âu.
Người Maya từng sống mà không quan tâm đến người Mông Cổ – những người không biết đến Zulus. Kể từ thế kỷ 15, những cường quốc châu Âu mở rộng quyền lực ra khắp thế giới, tạo nên một hệ thống địa chính trị toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử loài người, tính đến thời điểm mà số phận của những thổ dân Australia bị đặt dưới những chính sách của người Anh ở Ireland và giá bánh mỳ của Pháp phụ thuộc vào thời tiết ở Minnesota.
Châu Âu đồng thời tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài 500 năm với sự gia tăng của nạn bạo lực trong quần chúng, cho đến thế kỉ 20, khi chính Âu châu tự chia tách và đánh mất quyền kiểm soát thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, không còn quốc gia nào có thể xem là một cường quốc toàn cầu bậc nhất nữa.
Còn một sự kiện chưa từng có khác diễn ra khoảng một thập kỷ trước đó. Trong suốt 500 năm, quốc gia nào kiểm soát được Bắc Đại Tây Dương cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát cửa ngõ ra thế giới của châu Âu, cùng với nó là kiểm soát thương mại toàn cầu.
Đến năm 1980, địa thương mại chuyển hướng khiến Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trở nên quan trọng không kém. Mọi cường quốc thông trực tiếp với hai đại dương này đều có được những lợi thế đặc biệt. Bắc Mỹ trở thành trục của hệ thống toàn cầu, và bất kì cường quốc nào thống trị Bắc Mỹ cũng trở thành trung tâm hấp dẫn. Tất nhiên, cường quốc đó chính là Mỹ.
Vị trí địa lý cùng với khả năng tận dụng nó tạo nên những lợi thế kể trên. Nhờ vị trí địa lý, nước Mỹ không bị đe dọa bởi những cuộc tấn công cả ở đất liền và trên biển. Tuy dễ bị tấn công khủng bố nhưng nó nằm ngoài tầm hạt nhân, không phải chịu bất cứ đe dọa nào như Anh và Pháp hồi năm 1940 – 41, hay như Đức và Nhật Bản năm 1944 – 45.
Một phần lợi thế của nó là nhờ đứng trung lập với những nước tham chiến khiến Mỹ thực sự được hưởng lợi từ Thế chiến thứ 2. Nhờ vậy, Mỹ nổi lên với nền tảng hiện đại hóa công nghiệp triệt để.
Lịch sử chứng minh có những điều người ta từng nghĩ là không thể thì hoàn toàn có thể xảy ra. Và nếu chú ý quan sát, có thể thấy tất cả những “điều không tưởng” kia đều có những nguồn gốc lịch sử và địa chính trị rõ ràng như phân tích. Đây chính là cơ sở của Friedman khi viết cuốn sách dự đoán về những sự kiện đầy bất ngờ sẽ xảy ra trong thế kỷ 21.
Friedman đưa ra các chỉ số nói lên khả năng tiếp tục thống trị của Mỹ – chủ yếu bởi nước Mỹ có vị trí trung tâm được bao quanh bởi hai đại dương lớn và hải Quân Mỹ có sự kiểm soát tối cao trên khắp các vùng biển thế giới. Chiến tranh vào cuối thế kỷ 21 sẽ là để tranh giành quyền kiểm soát không gian, nhưng Mỹ vẫn sẽ dẫn đầu, Friedman nhận định.
Xung đột tiếp tục nhưng không trên quy mô như hai cuộc thế chiến trước đây. Theo Friedman, nước Mỹ không thực sự quan tâm đến việc liệu nó có thắng khi tham chiến không. Mỹ chỉ quan tâm đến việc đảm bảo các quốc gia liên minh sẽ không thách thức nước này. Và Mỹ vẫn đang kiểm soát rất tốt tình hình.
Theo Friedman, chiến tranh giữa Mỹ và thế giới Hồi giáo sẽ gần như chấm dứt, không phải nhờ vị Tổng thống mới Barack Obama, mà bởi al-Qaeda sắp tan vỡ. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga sẽ xảy ra vào những năm 2020 nhưng khác với quy mô chiến tranh lạnh của thế kỉ trước.
Vào những năm 20, Friedman nhận định, Trung Quốc sẽ bị phân cách do các tỉnh nội địa của nó ngày càng nghèo hơn và các tỉnh ven biển sẽ giàu có hơn nhờ thương mại thế giới. Chính phủ cố gắng kiểm soát tình trạng này, tuy nhiên những khu vực ven biển sẽ nhận được sự hỗ trợ của các đối tác thương mại toàn cầu của họ.
Vào những năm 30, Mỹ sẽ đối diện với một cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ, trầm trọng hơn bởi lớp người trẻ đều nghỉ hưu và sự thiếu hụt dân số thế giới. Thay vì hạn chế nhập cư, Friedman dự đoán Mỹ sẽ trả tiền cho những người nhập cư. Ông lập luận Mỹ sẽ lại nổi lên mạnh mẽ hơn về tài chính sau khủng hoảng như tất cả những lần khủng hoảng trước đó.
Vào những năm 40, xuất hiện ba cường quốc mới là Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan, cũng giống như sự nổi lên của Đức, Ý, Nhật vào thế kỷ 19. Nhật sẽ nỗ lực kiểm soát Thái Bình Dương. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là nước mạnh nhất trong cộng đồng Hồi giáo và Ba Lan sẽ xây dựng lại phần Đông Âu sau khi Liên Bang Nga sụp đổ. Lợi ích của Mỹ lúc này bị đe dọa bởi Nhật và Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đến một cuộc thế chiến vào những năm 50.
Tuy nhiên, Friedaman cũng cho rằng, Thế chiến thứ 3 sẽ không xảy ra như hai cuộc thế chiến trước đây: Nó sẽ bắt đầu bằng những cuộc tấn công vào các trạm không gian của quân đội Mỹ
Mỹ sẽ trả đũa những cuộc tấn công đó bằng vũ khí siêu thanh. Sau khoảng hai năm chiến tranh, Mỹ và nước đồng minh Ba Lan cuối cùng giành được chiến thắng.
Sau chiến tranh, Mỹ sẽ bước vào một cuộc đột phá lớn về công nghệ, tương tự như những năm 1950 nhằm tìm cách ngăn chặn xảy ra chiến tranh.
Kết quả lớn nhất thu được là phát minh ra những công cụ khai thác năng lượng từ không gian. Những tiến bộ trong công nghệ rô bốt và những công nghệ khác cũng sẽ giúp đảm bảo vị trí thống trị của Mỹ.
Friedman xếp Mỹ vào quốc gia “chưa trưởng thành”, giống như một trẻ vị thành niên với một cuộc khủng hoảng bản sắc. Ông không có ý chê bai. Mà bởi Mỹ chỉ mới 200 tuổi, trong khi lịch sử của các quốc gia châu Âu và châu Á ghi niên đại đến hàng thế kỷ.
Không đưa ra những cái tên cụ thể, Friedman chọn ra một vài nhận định khoa học viễn tưởng và một vài thể loại khác để đưa vào những dự đoán của mình. Ví dụ, vũ khí đá mặt trăng được ông dự báo giống với Robert A. Heinlein trong cuốn “The Moon is a Harsh Mistress”. Ông cũng có cùng ý tưởng lấy năng lượng mặt trời từ không gian của Heinlein và Lee Correy.
Friedman kết luận, có thể trật tự địa chính trị sẽ bị hoán đổi một lần nữa, và kỷ nguyên của Mỹ sẽ kết thúc. Sức mạnh Mỹ thậm chí sẽ suy yếu sớm hơn nữa. Tuy nhiên chưa phải trong thế kỷ này.
Nhiều cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp quốc tế đăng ký dịch vụ của mạng nghiên cứu dự báo chiến lược Stratfor, chủ yếu bởi những dự đoán chính xác của Friedman. “100 next years” (tạm dịch: 100 năm tới) không kỳ vọng phải hoàn toàn chính xác. Friedman có ghi chú rằng “cái gì càng chi tiết thì càng nhiều khả năng sai.”
Friedman không khoe khoang, ông chỉ đưa những kiến thức địa chính trị của mình vào quả cầu pha lê tiên tri mà thôi. Dù sao khi xét lại những dự đoán chính xác trước đây của ông, thì những gì Friedman dự đoán vẫn rất đáng để lắng nghe.

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2010

Gỡ bỏ Windows XP SP 2 một cách an toàn

Phiên bản windows XP SP2 vừa tung ra thì lại bị lỗi bảo mật. Vả lại có quá nhiều chương trình xung đột không chạy sau khi updates. Những lý do trên có thể cho bạn lời khuyên là gở bỏ XP SP2. Bài viết này giúp bạn một số cách có thể gỡ bỏ Windows XP SP2 một cách nhanh chóng và suôn sẻ nhất.
Cách 1 : Sử dụng Recovery Console
Đầu tiên bạn dùng CD cài đặt WinXP để boot từ CD. Khi gặp màn hình thông báo cài đặt, bạn nhấn R để start Recovery Console. Tiếp tục bạn chọn câu hỏi. Lưu ý bạn phải chọn một số cụ thể trước khi nhấn phím

enter.
Ví dụ 1:C:\windows
Sau đó bạn điền vào password của admin. Điều này các bạn thường bỏ qua không thiết lập. Tuy nhiên nếu không biết, thì bạn cứ enter. Đừng cố nhớ, nếu bạn gõ sai bạn sẽ không thể tiếp tục. Tiếp theo tại dấu nhắc bạn gõ cd $ntservicepackuninstall$\spuninst. Nhấn Enter.
Tiếp theo bạn gõ tiếp spuninst.txt (để xem những danh sách những file đang thực thi). Sau khi quá trình remove hoàn tất, bạn gõ exit là restart lại máy tính ở chế độ safe mode ( nhấn F8 và chọn chế độ safe mode ).
Tuy nhiên nếu thấy màn hình đen thì bạn nên tắt nguồn và restart lại lần nữa. Khi đó bạn sẽ vào hệ thống được. Sau khi máy tính khởi động lại, windows Explorer (explorer.exe) sẽ không hoạt động, các icon đều biến mất, thay vào đó là những icon lạ hoắc không hình dạng. Để giải quyết trường hợp trên, bạn làm như sau. Nhấn CTRL + ALT + DEL để vào TASK MANAGER.
Chọn vào File > New Task, gõ regedit. Sau đó tìm đến từ khóa HKEY_LOCAL_MACHINE\System\CurrentControlSet\Services\RpcSs
Tạo mới một key mới là ObjectName với giá trị là LocalSystem. Nhấn Ok để hoàn tất. Khởi động lại máy tính.
Cách 2: Sử dụng System restore.
Để thực hiện bạn nhấn WIN + R để mở hộp thoại Run. Sau đó gõ vào %SystemRoot%\System32\restore\rstrui.exe.
Nhấn OK. Hộp thoại System Restore xuất hiện. Bạn chọn Restore My Computer To An Earlier Time. Nhấn Next. Chọn thời điểm bạn updates XP SP2. Nhấn Next và làm theo hướng dẫn trên màn hình để hoàn tất quá trình gở bỏ XP SP2. Restart lại máy tính.
Cách 3: Sử dụng công cụ Add or remove programs trong Control Panel
Nhấn Win + R. Hộp thoại run hiển thị ,bạn gõ vào appwiz.cpl. Nhấn OK để vào Add remove Programs (bạn cũng có thể vào danh sách chương trình cài đặt, khi đó bạn sẽ gặp ngay Windows XP Service Pack 2 trong Program list. Nhấn Remove để gở bỏ ra khỏi hệ thống).
Một vài lưu ý khi thiết lập
Cách 3 đơn giản nhất, tuy nhiên nếu chỉ trình bày cách 3 một cách riêng lẻ thì bạn sẽ gặp trường hợp như cách 1 là các icon không hiển thị. Do vậy cách giải quyết đã trình bày ở cách 1 .
Cách 1 chỉ áp dụng sau khi bước 2 và bước 3 thất bại. Trong trường hợp đó cách 1 vẫn là hiệu quả nhất và gom lại cả ba cách là có chung một giải pháp là đụng tới regedit. Do đó bạn nên sao lưu trước khi thiết lập…
Theo kinh nghiệm thì hoàn toàn không có việc gì xảy ra khi gở bỏ SP2. Ngoại trừ icon không hiển thị và cách giải quyết đều cho kết quả tốt đẹp
Phiên bản windows XP SP2 vừa tung ra thì lại bị lỗi bảo mật. Vả lại có quá nhiều chương trình xung đột không chạy sau khi updates. Những lý do trên có thể cho bạn lời khuyên là gở bỏ XP SP2. Bài viết này giúp bạn một số cách có thể gỡ bỏ Windows XP SP2 một cách nhanh chóng và suôn sẻ nhất.
Cách 1 : Sử dụng Recovery Console
Đầu tiên bạn dùng CD cài đặt WinXP để boot từ CD. Khi gặp màn hình thông báo cài đặt, bạn nhấn R để start Recovery Console. Tiếp tục bạn chọn câu hỏi. Lưu ý bạn phải chọn một số cụ thể trước khi nhấn phím

enter.
Ví dụ 1:C:\windows
Sau đó bạn điền vào password của admin. Điều này các bạn thường bỏ qua không thiết lập. Tuy nhiên nếu không biết, thì bạn cứ enter. Đừng cố nhớ, nếu bạn gõ sai bạn sẽ không thể tiếp tục. Tiếp theo tại dấu nhắc bạn gõ cd $ntservicepackuninstall$\spuninst. Nhấn Enter.
Tiếp theo bạn gõ tiếp spuninst.txt (để xem những danh sách những file đang thực thi). Sau khi quá trình remove hoàn tất, bạn gõ exit là restart lại máy tính ở chế độ safe mode ( nhấn F8 và chọn chế độ safe mode ).
Tuy nhiên nếu thấy màn hình đen thì bạn nên tắt nguồn và restart lại lần nữa. Khi đó bạn sẽ vào hệ thống được. Sau khi máy tính khởi động lại, windows Explorer (explorer.exe) sẽ không hoạt động, các icon đều biến mất, thay vào đó là những icon lạ hoắc không hình dạng. Để giải quyết trường hợp trên, bạn làm như sau. Nhấn CTRL + ALT + DEL để vào TASK MANAGER.
Chọn vào File > New Task, gõ regedit. Sau đó tìm đến từ khóa HKEY_LOCAL_MACHINE\System\CurrentControlSet\Services\RpcSs
Tạo mới một key mới là ObjectName với giá trị là LocalSystem. Nhấn Ok để hoàn tất. Khởi động lại máy tính.
Cách 2: Sử dụng System restore.
Để thực hiện bạn nhấn WIN + R để mở hộp thoại Run. Sau đó gõ vào %SystemRoot%\System32\restore\rstrui.exe.
Nhấn OK. Hộp thoại System Restore xuất hiện. Bạn chọn Restore My Computer To An Earlier Time. Nhấn Next. Chọn thời điểm bạn updates XP SP2. Nhấn Next và làm theo hướng dẫn trên màn hình để hoàn tất quá trình gở bỏ XP SP2. Restart lại máy tính.
Cách 3: Sử dụng công cụ Add or remove programs trong Control Panel
Nhấn Win + R. Hộp thoại run hiển thị ,bạn gõ vào appwiz.cpl. Nhấn OK để vào Add remove Programs (bạn cũng có thể vào danh sách chương trình cài đặt, khi đó bạn sẽ gặp ngay Windows XP Service Pack 2 trong Program list. Nhấn Remove để gở bỏ ra khỏi hệ thống).
Một vài lưu ý khi thiết lập
Cách 3 đơn giản nhất, tuy nhiên nếu chỉ trình bày cách 3 một cách riêng lẻ thì bạn sẽ gặp trường hợp như cách 1 là các icon không hiển thị. Do vậy cách giải quyết đã trình bày ở cách 1 .
Cách 1 chỉ áp dụng sau khi bước 2 và bước 3 thất bại. Trong trường hợp đó cách 1 vẫn là hiệu quả nhất và gom lại cả ba cách là có chung một giải pháp là đụng tới regedit. Do đó bạn nên sao lưu trước khi thiết lập…
Theo kinh nghiệm thì hoàn toàn không có việc gì xảy ra khi gở bỏ SP2. Ngoại trừ icon không hiển thị và cách giải quyết đều cho kết quả tốt đẹp

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2010

Tăng tốc độ mở Start Menu – Windows XP

Cách 1:
+ Chạy Regedit từ Start\Run
+ Tìm đến khóa Hkey_Current_User\Control Panel\Desktop
+ Thay đổi value của key Menu ShowDelay thành 0
=> Chắc chắn nó sẽ nhanh hơn hẳn đấy.
Cách 2:
- Nếu bạn có dùng TuneUp Utilities thì làm như sau:

+ Bật TuneUp Utilities lên, chọn TuneUp SystemControl
+ Trong box Usage > chọn Start Menu
+ Trong thẻ Behavior > tích chọn vào Open menus automatically after indicated delay > kéo con chạy về hết bên trái (phía Short delay), có giá trị = 0 ms
P/s: Hai cách trên là như nhau, 1 cách là dùng sẵn của phần mềm, cách còn lại thì dựa vào Win.
Đây là 1 thủ thuật nhỏ của việc chỉnh sửa Registry. Nếu bạn quan tâm đến những thủ thuật về Registry thì vào đây:
Code:
http://www.updatesofts.com/forums/showthread.php?t=65524
Cách 1:
+ Chạy Regedit từ Start\Run
+ Tìm đến khóa Hkey_Current_User\Control Panel\Desktop
+ Thay đổi value của key Menu ShowDelay thành 0
=> Chắc chắn nó sẽ nhanh hơn hẳn đấy.
Cách 2:
- Nếu bạn có dùng TuneUp Utilities thì làm như sau:

+ Bật TuneUp Utilities lên, chọn TuneUp SystemControl
+ Trong box Usage > chọn Start Menu
+ Trong thẻ Behavior > tích chọn vào Open menus automatically after indicated delay > kéo con chạy về hết bên trái (phía Short delay), có giá trị = 0 ms
P/s: Hai cách trên là như nhau, 1 cách là dùng sẵn của phần mềm, cách còn lại thì dựa vào Win.
Đây là 1 thủ thuật nhỏ của việc chỉnh sửa Registry. Nếu bạn quan tâm đến những thủ thuật về Registry thì vào đây:
Code:
http://www.updatesofts.com/forums/showthread.php?t=65524

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Gia tăng hiệu suất Windows

(Dân trí) – Sau một thời gian dài hoạt động, bản ghi nhớ các chương trình Windows của bạn sẽ trở nên quá tải với một số lượng lớn các thư mục đã cũ. PC chạy như rùa bò và Windows tốn nhiều thời gian để tải, tìm kiếm và đọc dữ liệu các thư mục. Phần mềm TweakNow RegCleaner sẽ giúp máy tính của bạn đạt hiệu suất làm việc cao nhất.
Việc cài đặt phần mềm này, có thể nói là tạo dựng được một bản đăng kí được coi là trái tim và linh hồn của bất cứ một hệ thống Windows nào. Nó chứa đựng thông tin điều khiển các hệ thống trong hệ điều hành của
bạn xuất hiện ra sao và chạy nó như thế nào. Hầu hết những chương trình ứng dụng hiện nay đều sử dụng đăng kí này để lưu giữ cấu hình và những dữ liệu quan trọng khác. Khi bạn cài đặt các chương trình ứng dụng, mục đăng kí mới này sẽ được tạo lập.
Phiên bản mới của phần mềm này đã chứng minh được hiệu quả của nó với các tính năng ưu việt:
- Nhanh: Sử dụng với hiệu suất máy cao, TweakNow RegCleaner nhanh chóng kiểm tra những mục đăng kí để tìm ra các thư mục cũ đã cất giữ trong hệ thống máy.
- Chính xác: Do sử dụng thuật toán phức hợp TweakNow RegCleaner nhận dạng chính xác các thư mục cũ.
- Đăng kí linh hoạt: TweakNow RegCleaner cho phép hiển thị hai phần: chi tiết hoặc không chi tiết.
Hiện nay phần mềm này đã ra mắt phiên bản mới 2.9.7 với độ bền cải tiến hơn và hiện thị một cách tối đa, hỗ trợ cao với nền 64x. Tùy vào chức năng mà bạn mong muốn, các phiên bản của phần mềm này sẽ đáp ứng giúp bạn. Tất nhiên, bạn sẽ phải mua nó với giá 26,95 USD hay 69,95 USD cho cá nhân hay cho toàn bộ hệ thống của bạn. Với gói giá 69,95 USD, phần mềm sẽ hỗ trợ máy tính của bạn cài đặt rất nhiều phần mềm với số lượng không giới hạn.
Phần mềm hỗ trợ các hệ điều hành Windows: 2000/XP/XP x64/2003.
Bạn có thể mua phần mềm tại các cửa hàng hoặc tải bản dùng thử 30 ngày tại địa chỉ:
http://www.tweaknow.com/download/RegCleanerPro-t.exe
(Dân trí) – Sau một thời gian dài hoạt động, bản ghi nhớ các chương trình Windows của bạn sẽ trở nên quá tải với một số lượng lớn các thư mục đã cũ. PC chạy như rùa bò và Windows tốn nhiều thời gian để tải, tìm kiếm và đọc dữ liệu các thư mục. Phần mềm TweakNow RegCleaner sẽ giúp máy tính của bạn đạt hiệu suất làm việc cao nhất.
Việc cài đặt phần mềm này, có thể nói là tạo dựng được một bản đăng kí được coi là trái tim và linh hồn của bất cứ một hệ thống Windows nào. Nó chứa đựng thông tin điều khiển các hệ thống trong hệ điều hành của
bạn xuất hiện ra sao và chạy nó như thế nào. Hầu hết những chương trình ứng dụng hiện nay đều sử dụng đăng kí này để lưu giữ cấu hình và những dữ liệu quan trọng khác. Khi bạn cài đặt các chương trình ứng dụng, mục đăng kí mới này sẽ được tạo lập.
Phiên bản mới của phần mềm này đã chứng minh được hiệu quả của nó với các tính năng ưu việt:
- Nhanh: Sử dụng với hiệu suất máy cao, TweakNow RegCleaner nhanh chóng kiểm tra những mục đăng kí để tìm ra các thư mục cũ đã cất giữ trong hệ thống máy.
- Chính xác: Do sử dụng thuật toán phức hợp TweakNow RegCleaner nhận dạng chính xác các thư mục cũ.
- Đăng kí linh hoạt: TweakNow RegCleaner cho phép hiển thị hai phần: chi tiết hoặc không chi tiết.
Hiện nay phần mềm này đã ra mắt phiên bản mới 2.9.7 với độ bền cải tiến hơn và hiện thị một cách tối đa, hỗ trợ cao với nền 64x. Tùy vào chức năng mà bạn mong muốn, các phiên bản của phần mềm này sẽ đáp ứng giúp bạn. Tất nhiên, bạn sẽ phải mua nó với giá 26,95 USD hay 69,95 USD cho cá nhân hay cho toàn bộ hệ thống của bạn. Với gói giá 69,95 USD, phần mềm sẽ hỗ trợ máy tính của bạn cài đặt rất nhiều phần mềm với số lượng không giới hạn.
Phần mềm hỗ trợ các hệ điều hành Windows: 2000/XP/XP x64/2003.
Bạn có thể mua phần mềm tại các cửa hàng hoặc tải bản dùng thử 30 ngày tại địa chỉ:
http://www.tweaknow.com/download/RegCleanerPro-t.exe

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

Cài lại Windows không làm mất dữ liệu

Làm việc quá lâu, Windows sẽ mất ổn định. Dùng một máy tính quá hai năm, tới lúc nào đó bạn có thể gặp trục trặc và phải cài lại Windows từ đầu. Nhưng không như suy nghĩ phổ biến của nhiều người, bạn không cần phải định dạng (format) lại ổ đĩa cứng (trừ trường hợp sẽ trình bày dưới đây). Những thứ tồi tệ cần loại bỏ đều nằm trong thư mục Windows của bạn.
Trước khi bắt đầu, phải tập hợp trong tay các CD-ROM chứa Windows và các ứng dụng. Sao lưu các tập tin dữ liệu (chỉ để cho an toàn), và… dành ra hai ngày làm việc. Nếu mọi việc suôn sẻ, bạn có thể cài lại
Windows trong vài giờ. Tuy nhiên bạn phải tính đến một số trục trặc có thể xảy ra: Không tìm được CD cần
thiết nào đó, dữ liệu không nằm đúng chỗ, hoặc một cái gì đó không chịu hoạt động.
Có sự khác nhau giữa việc cài lại để sửa chữa và cài lại mới hoàn toàn. Việc cài sửa chữa cho phép giữ lại các thiết lập đang dùng, trong khi đó cài lại mới hoàn toàn sẽ trao cho bạn một bản Windows mới ‘sạch sẽ’ thực sự. Việc cài sửa chữa tuy nhanh chóng và dễ dàng nhưng không khắc phục được khi có quá nhiều trục trặc. Những hướng dẫn dưới đây dùng cho cài lại mới hoàn toàn, trừ những trường hợp ngoại lệ có chú thích.
Hầu hết các máy tính đều có kèm theo CD phục hồi của nhà sản xuất, ngoài CD MS Windows (nếu bạn chỉ có CD MS Windows, hãy chuyển tới mục phiên bản Windows tương ứng).
Một số CD phục hồi cung cấp tất cả các tùy chọn của CD MS Windows đầy đủ, hướng dẫn rõ ràng và có sẵn các trình điều khiển (driver) phần cứng phù hợp. Một số khác có thể không làm gì ngoài việc format lại ổ đĩa cứng và phục hồi đúng tình trạng như khi mới mua (đây là ngoại lệ cần phải format lại).
Nếu đĩa CD phục hồi của bạn là loại chỉ có công dụng format lại, bạn phải sao lưu các tập tin dữ liệu lên mạng hay một phương tiện lưu trữ tháo lắp nào đó trước khi cài lại Windows. Nếu đang dùng Windows 98 hoặc Me, bạn sao lưu C:\My Documents cùng với các folder chứa trong C:\Windows sẽ được nói đến trong mục 98/Me bên dưới. Nếu đang dùng Windows 2000 hoặc XP, bạn sao lưu C:\Documents and Settings. Đồng thời bạn cũng phải sao lưu cả các folder nào có chứa các tập tin dữ liệu của mình.
CD Windows 98 và ME
Các phiên bản Windows này lưu giữ một số dữ liệu quan trọng trong folder Windows mà bạn sẽ xoá, cho nên phải chép một số folder con của nó vào chỗ khác. Bạn nhấn phải My Computer và chọn Explore. Nhấn đúp biểu tượng ổ đĩa C: (trong Me, bạn có thể phải nhấn View the entire contents of this drive). Nhấn phải trong khung bên phải rồi chọn New folder. Đặt tên cho folder mới là oldstuff.
Chuyển đến folder Windows (có thể phải nhấn View the entire contents of this drive), nhấn giữ phím <Ctrl> và chọn các folder con sau: All Users, Application Data, Desktop, Favorites, Local Settings, Profiles, SendTo, và Start Menu. Nếu không nhìn thấy tất cả chúng, bạn chọn View.Folder Options (Tools.Folder Option trong Me), nhấn nhãn View, chọn Show all files, và nhấn OK (nếu vẫn chưa nhìn thấy tất cả chúng, bạn đừng lo). Ấn phím <Ctrl> và kéo các folder này vào C:\oldstuff.
Khởi động lại Windows bằng đĩa khởi động trong ổ đĩa mềm (để tạo đĩa mềm khởi động, bạn đưa đĩa mềm vào ổ, chọn Start.Settings.Control Panel, nhấn đúp Add/Remove Programs, nhấn Startup Disk.Create Disk, và làm theo các thông báo). Trong Startup Menu, bạn chọn Start computer with CD-ROM support. Trong khi các driver được nạp, bạn đưa đĩa CD Windows vào ổ.
Trừ trường hợp thực hiện một cài đặt lại để sửa chữa, còn bạn cứ việc gõ lệnh c:\windows\ command\deltree /y c:\windows và ấn phím <Enter>. Việc xóa các tập tin cũ có thể mất nhiều thời gian, nhưng khóa chuyển đổi /y sẽ triệt bỏ các nhắc nhở cần xác nhận, nên bạn hãy nghỉ giải lao một chút.
Khi quay lại dấu nhắc A:, bạn gõ x:Setup, trong đó x là tên chữ ổ CD của bạn (thường đó là ký tự sau tên chữ của nó trong Windows, nếu trong Windows là D: thì nhiều khả năng ở đây là E:). Ấn <Enter> và làm theo các thông báo.
Khi quay lại trong Windows, bạn cài đặt lại driver của card màn hình. Nếu cài đặt Windows cho nhiều người dùng, bạn còn phải tạo lại từng tài khoản cho từng người dùng. Chọn Start.Settings.Control Panel.Users để thực hiện việc đó. Điều quan trọng là tên người dùng phải khớp với tên trong cài đặt cũ. Nếu không chắc chắn, bạn mở Windows Explorer và đi đến C:\oldstuff\profiles. Ở đó bạn sẽ tìm thấy các folder ứng với từng tên người dùng đã đăng ký (xem hình 2). Bạn đừng bận tâm về password. Bạn thoát ra và đăng nhập lại với từng người dùng. Sau khi thực hiện xong, bạn thoát ra và đăng nhập lại một lần nữa, nhưng thay vì chọn tên người dùng và password, bạn ấn phím <Esc> để vào Windows không dùng người dùng cụ thể nào.
Chọn Start.Programs.MS-DOS Prompt (trong Windows 98) hoặc Start.Programs.Accessories.MS-DOS Prompt (trong Windows Me). Gõ xcopy c:\oldstuff\*.* c:\windows /s/h/r/c và ấn <Enter> (nếu muốn biết về các khoá chuyển đổi của xcopy, bạn nhập lệnh xcopy/?). Khi xcopy hỏi có ghi đè lên một tập tin nào đó hay không, bạn ấn a (All) cho tất cả. Khi xcopy thực hiện xong, bạn khởi động lại và đăng nhập (dưới tên một người dùng cụ thể nào đó, nếu cần). Mở My Documents để biết chắc tất cả các tập tin dữ liệu của bạn đều nằm đúng chỗ, kể cả các địa chỉ Web ưa thích trong Internet Explorer và các shortcut menu Start tùy biến.
Giờ thì bạn có thể nhảy thẳng đến mục ‘Kết thúc công việc’.
CD Windows 2000 và XP
Khởi động máy tính với đĩa CD Windows trong ổ. Khi thấy hiện thông báo ‘Press any key to boot from CD’ (ấn phím bất kỳ để khởi động bằng CD ), bạn thực hiện theo. (Nếu không nhìn thấy thông báo này trước khi Windows khởi chạy, bạn khởi động lại Windows, ấn phím mà bạn được nhắc nhở để vào chương trình PC Setup, và thay đổi trình tự khởi động để ổ CD là lựa chọn đầu tiên).
Ở màn hình ‘Welcome to Setup’, bạn ấn <Enter>. Tùy chọn R (repair – sửa chữa) sẽ đưa bạn vào Recovery Module rất có ích khi Windows không khởi động, nhưng không giúp ích gì cho việc cài đặt lại. Bạn sẽ được báo ngay rằng mọi thứ đã sẵn sàng cho việc cài đặt Windows lên máy tính. Ấn r đối với cài đặt sửa chữa hoặc <Esc> để bắt đầu cài lại mới hoàn toàn. Đối với phục hồi hoàn toàn, bạn chọn phân vùng đĩa C: và ấn <Enter>. Khi thấy xuất hiện cảnh báo là có một hệ điều hành đang nằm trên phân vùng đĩa đó, bạn ấn c. Khi được hỏi về sự chọn lựa phân vùng đĩa, bạn chọn Leave the current file system intact (no changes – không thay đổi). Khi được báo đã có folder Windows (hoặc Winnt đối với Windows 2000), bạn ấn l để xóa nó và tạo một folder mới. Thực hiện theo các thông báo. Khi chương trình cài đặt hỏi tên của bạn, nhập temp.
Khi cài đặt xong, hệ thống của bạn sẽ khởi động lại vào Windows, và bạn sẽ được đăng nhập với tên người dùng Temp. Nếu màn hình khó đọc, bạn cài đặt lại driver của card màn hình.
Nếu cài đặt lại Windows XP, bạn bỏ qua mục ‘Đối với cả Windows XP và 2000′.
Nếu cài đặt lại Windows 2000, bạn thoát ra khỏi tên Temp và đăng nhập lại với tên Administrator. Xong thoát ra và đăng nhập một lần nữa với tên Temp. Mở Windows Explorer và đến C:\Documents and Settings. Một trong hai folder con sẽ được đặt tên là Administrator (người quản trị hệ thống). Folder kia sẽ được đặt tên đại khái là Administrator computername.
Bạn chọn Start.Programs.Accessories.Command Prompt. Gõ cd ‘\documents and settings’ và ấn <Enter>. Sau đó gõ xcopy administrator\*.* administrator.computername /s/h/h/c, thay computername bằng phần cuối của tên folder đó (sau ‘Administrator.’) trong Documents and Settings. Bây giờ bạn ấn <Enter> và khi được hỏi về việc ghi đè các tập tin hoặc folder, bạn ấn a (All) cho tất cả.
Nếu có bất kỳ tên người dùng nào trong cài đặt cũ ngoài Administrator, bạn tiếp tục thực hiện theo mục ‘Đối với cả Windows XP và 2000′ bên dưới. Nếu không có, bạn mở Windows Explorer và kiểm tra để chắc chắn các tập tin dữ liệu đã nằm đúng chỗ. Sau đó dùng applet Users và Passwords của Control Panel và xoá tên người dùng Temp trước khi đi đến mục ‘Kết thúc công việc’.
Đối với cả Windows XP và 2000
Mở lại Windows Explorer. Chọn ổ đĩa C: (có thể phải nhấn Show the contents of this folder). Nhấn chuột phải trong khung bên phải, chọn New folder và đặt tên cho folder mới là oldstuff. Trong khung bên trái, chọn folder Documents and Settings. Nó phải có các folder con ứng với từng người dùng từ cài đặt trước cộng thêm một folder cho Temp và một số folder khác. Di chuyển các folder con ứng với những tên người dùng trước sang oldstuff.
Chọn Start.Control Panel.User Accounts (Start.Settings.Control Panel.Users and Passwords trong Windows 2000). Tạo tài khoản cho từng người dùng đã được đăng ký trước khi cài đặt lại. Kiểm tra lại để bảo đảm sử dụng đúng các tên. Chúng cũng trùng tên các folder bạn vừa di chuyển vào oldstuff (hình 2). Trong Windows XP, ít nhất một người dùng phải có quyền của người quản trị. Bạn thoát ra và đăng nhập lại với tên của từng người dùng, trước khi đăng nhập lại dưới tên Temp. Dùng Log Off chứ đừng dùng Switch User (chuyển đổi ngưới dùng) ở hộp thoại Log Off của Windows XP (điều này không có trong Windows 2000).
Đăng nhập dưới tên Temp, chọn Start.Programs.Accessories.Command Prompt (Start.All Programs.Accessories.Command Prompt trong XP), gõ xcopy c:\oldstuff\*.* ‘c:\documents and settings’ /s /h /r /c, và ấn <Enter>. Ấn phím a khi được hỏi có muốn ghi đè lên một tập tin hay không. Thoát khỏi Temp và đăng nhập vào từng tài khoản đã được phục hồi để kiểm tra chắc chắn tài liệu và dữ liệu của mọi người dùng đều nằm đúng chỗ. Đăng nhập là người quản trị và chạy applet User Accounts của Control Panel một lần nữa để loại bỏ người dùng Temp.
Kết thúc công việc
Đến đây bạn đã có Windows hoạt động, nhưng còn thiếu nhiều thứ khác. Có thể còn phải cài đặt lại máy in, card âm thanh v.v… Rất may, nếu driver cho các phần cứng này có kèm theo trong Windows hoặc trong CD phục hồi của nhà sản xuất, chắc chắn nó đã được cài đặt lại một cách tự động.
Bạn còn phải cài đặt lại các ứng dụng. Một số thiết lập của các ứng dụng sẽ không bị thay đổi bởi việc cài đặt lại, nhưng những thiết lập trước đây được lưu giữ trong Registry đều bị loại bỏ hết.
Khi kết nối Internet hoạt động trở lại, bạn đến windowsupdate.microsoft.com để tải xuống tất cả các bản cập nhật quan trọng cho phiên bản Windows của mình (hình 3). Sau đó đến thăm các Wesite của các hãng sản xuất phần cứng của bạn để cập nhật các driver.
Sau khi cài đặt lại, một số dữ liệu của bạn có thể xuất hiện không đúng chỗ. Tìm kiếm trong các folder Application Data và oldstuff và xem có thể chuyển chúng vào folder mà Windows hoặc các ứng dụng của bạn sẽ tìm chúng không. Nếu tìm thấy folder mang tên Identities có hai folder con mang tên dài và khó hiểu, hãy thử chuyển dữ liệu của 1 folder sang folder kia và xem dữ liệu của bạn có xuất hiện lại không.
Có thể bạn nghĩ bước kết thúc là xóa folder C:\oldstuff và cả folder Administrator trong Windows 2000. Hãy để việc đó lại sau. Bạn đợi vài ngày, vài tuần, thậm chí vài tháng sau, cho đến khi nào tin chắc tất cả các tập tin cần thiết đều có thể truy cập được.
Làm việc quá lâu, Windows sẽ mất ổn định. Dùng một máy tính quá hai năm, tới lúc nào đó bạn có thể gặp trục trặc và phải cài lại Windows từ đầu. Nhưng không như suy nghĩ phổ biến của nhiều người, bạn không cần phải định dạng (format) lại ổ đĩa cứng (trừ trường hợp sẽ trình bày dưới đây). Những thứ tồi tệ cần loại bỏ đều nằm trong thư mục Windows của bạn.
Trước khi bắt đầu, phải tập hợp trong tay các CD-ROM chứa Windows và các ứng dụng. Sao lưu các tập tin dữ liệu (chỉ để cho an toàn), và… dành ra hai ngày làm việc. Nếu mọi việc suôn sẻ, bạn có thể cài lại
Windows trong vài giờ. Tuy nhiên bạn phải tính đến một số trục trặc có thể xảy ra: Không tìm được CD cần
thiết nào đó, dữ liệu không nằm đúng chỗ, hoặc một cái gì đó không chịu hoạt động.
Có sự khác nhau giữa việc cài lại để sửa chữa và cài lại mới hoàn toàn. Việc cài sửa chữa cho phép giữ lại các thiết lập đang dùng, trong khi đó cài lại mới hoàn toàn sẽ trao cho bạn một bản Windows mới ‘sạch sẽ’ thực sự. Việc cài sửa chữa tuy nhanh chóng và dễ dàng nhưng không khắc phục được khi có quá nhiều trục trặc. Những hướng dẫn dưới đây dùng cho cài lại mới hoàn toàn, trừ những trường hợp ngoại lệ có chú thích.
Hầu hết các máy tính đều có kèm theo CD phục hồi của nhà sản xuất, ngoài CD MS Windows (nếu bạn chỉ có CD MS Windows, hãy chuyển tới mục phiên bản Windows tương ứng).
Một số CD phục hồi cung cấp tất cả các tùy chọn của CD MS Windows đầy đủ, hướng dẫn rõ ràng và có sẵn các trình điều khiển (driver) phần cứng phù hợp. Một số khác có thể không làm gì ngoài việc format lại ổ đĩa cứng và phục hồi đúng tình trạng như khi mới mua (đây là ngoại lệ cần phải format lại).
Nếu đĩa CD phục hồi của bạn là loại chỉ có công dụng format lại, bạn phải sao lưu các tập tin dữ liệu lên mạng hay một phương tiện lưu trữ tháo lắp nào đó trước khi cài lại Windows. Nếu đang dùng Windows 98 hoặc Me, bạn sao lưu C:\My Documents cùng với các folder chứa trong C:\Windows sẽ được nói đến trong mục 98/Me bên dưới. Nếu đang dùng Windows 2000 hoặc XP, bạn sao lưu C:\Documents and Settings. Đồng thời bạn cũng phải sao lưu cả các folder nào có chứa các tập tin dữ liệu của mình.
CD Windows 98 và ME
Các phiên bản Windows này lưu giữ một số dữ liệu quan trọng trong folder Windows mà bạn sẽ xoá, cho nên phải chép một số folder con của nó vào chỗ khác. Bạn nhấn phải My Computer và chọn Explore. Nhấn đúp biểu tượng ổ đĩa C: (trong Me, bạn có thể phải nhấn View the entire contents of this drive). Nhấn phải trong khung bên phải rồi chọn New folder. Đặt tên cho folder mới là oldstuff.
Chuyển đến folder Windows (có thể phải nhấn View the entire contents of this drive), nhấn giữ phím <Ctrl> và chọn các folder con sau: All Users, Application Data, Desktop, Favorites, Local Settings, Profiles, SendTo, và Start Menu. Nếu không nhìn thấy tất cả chúng, bạn chọn View.Folder Options (Tools.Folder Option trong Me), nhấn nhãn View, chọn Show all files, và nhấn OK (nếu vẫn chưa nhìn thấy tất cả chúng, bạn đừng lo). Ấn phím <Ctrl> và kéo các folder này vào C:\oldstuff.
Khởi động lại Windows bằng đĩa khởi động trong ổ đĩa mềm (để tạo đĩa mềm khởi động, bạn đưa đĩa mềm vào ổ, chọn Start.Settings.Control Panel, nhấn đúp Add/Remove Programs, nhấn Startup Disk.Create Disk, và làm theo các thông báo). Trong Startup Menu, bạn chọn Start computer with CD-ROM support. Trong khi các driver được nạp, bạn đưa đĩa CD Windows vào ổ.
Trừ trường hợp thực hiện một cài đặt lại để sửa chữa, còn bạn cứ việc gõ lệnh c:\windows\ command\deltree /y c:\windows và ấn phím <Enter>. Việc xóa các tập tin cũ có thể mất nhiều thời gian, nhưng khóa chuyển đổi /y sẽ triệt bỏ các nhắc nhở cần xác nhận, nên bạn hãy nghỉ giải lao một chút.
Khi quay lại dấu nhắc A:, bạn gõ x:Setup, trong đó x là tên chữ ổ CD của bạn (thường đó là ký tự sau tên chữ của nó trong Windows, nếu trong Windows là D: thì nhiều khả năng ở đây là E:). Ấn <Enter> và làm theo các thông báo.
Khi quay lại trong Windows, bạn cài đặt lại driver của card màn hình. Nếu cài đặt Windows cho nhiều người dùng, bạn còn phải tạo lại từng tài khoản cho từng người dùng. Chọn Start.Settings.Control Panel.Users để thực hiện việc đó. Điều quan trọng là tên người dùng phải khớp với tên trong cài đặt cũ. Nếu không chắc chắn, bạn mở Windows Explorer và đi đến C:\oldstuff\profiles. Ở đó bạn sẽ tìm thấy các folder ứng với từng tên người dùng đã đăng ký (xem hình 2). Bạn đừng bận tâm về password. Bạn thoát ra và đăng nhập lại với từng người dùng. Sau khi thực hiện xong, bạn thoát ra và đăng nhập lại một lần nữa, nhưng thay vì chọn tên người dùng và password, bạn ấn phím <Esc> để vào Windows không dùng người dùng cụ thể nào.
Chọn Start.Programs.MS-DOS Prompt (trong Windows 98) hoặc Start.Programs.Accessories.MS-DOS Prompt (trong Windows Me). Gõ xcopy c:\oldstuff\*.* c:\windows /s/h/r/c và ấn <Enter> (nếu muốn biết về các khoá chuyển đổi của xcopy, bạn nhập lệnh xcopy/?). Khi xcopy hỏi có ghi đè lên một tập tin nào đó hay không, bạn ấn a (All) cho tất cả. Khi xcopy thực hiện xong, bạn khởi động lại và đăng nhập (dưới tên một người dùng cụ thể nào đó, nếu cần). Mở My Documents để biết chắc tất cả các tập tin dữ liệu của bạn đều nằm đúng chỗ, kể cả các địa chỉ Web ưa thích trong Internet Explorer và các shortcut menu Start tùy biến.
Giờ thì bạn có thể nhảy thẳng đến mục ‘Kết thúc công việc’.
CD Windows 2000 và XP
Khởi động máy tính với đĩa CD Windows trong ổ. Khi thấy hiện thông báo ‘Press any key to boot from CD’ (ấn phím bất kỳ để khởi động bằng CD ), bạn thực hiện theo. (Nếu không nhìn thấy thông báo này trước khi Windows khởi chạy, bạn khởi động lại Windows, ấn phím mà bạn được nhắc nhở để vào chương trình PC Setup, và thay đổi trình tự khởi động để ổ CD là lựa chọn đầu tiên).
Ở màn hình ‘Welcome to Setup’, bạn ấn <Enter>. Tùy chọn R (repair – sửa chữa) sẽ đưa bạn vào Recovery Module rất có ích khi Windows không khởi động, nhưng không giúp ích gì cho việc cài đặt lại. Bạn sẽ được báo ngay rằng mọi thứ đã sẵn sàng cho việc cài đặt Windows lên máy tính. Ấn r đối với cài đặt sửa chữa hoặc <Esc> để bắt đầu cài lại mới hoàn toàn. Đối với phục hồi hoàn toàn, bạn chọn phân vùng đĩa C: và ấn <Enter>. Khi thấy xuất hiện cảnh báo là có một hệ điều hành đang nằm trên phân vùng đĩa đó, bạn ấn c. Khi được hỏi về sự chọn lựa phân vùng đĩa, bạn chọn Leave the current file system intact (no changes – không thay đổi). Khi được báo đã có folder Windows (hoặc Winnt đối với Windows 2000), bạn ấn l để xóa nó và tạo một folder mới. Thực hiện theo các thông báo. Khi chương trình cài đặt hỏi tên của bạn, nhập temp.
Khi cài đặt xong, hệ thống của bạn sẽ khởi động lại vào Windows, và bạn sẽ được đăng nhập với tên người dùng Temp. Nếu màn hình khó đọc, bạn cài đặt lại driver của card màn hình.
Nếu cài đặt lại Windows XP, bạn bỏ qua mục ‘Đối với cả Windows XP và 2000′.
Nếu cài đặt lại Windows 2000, bạn thoát ra khỏi tên Temp và đăng nhập lại với tên Administrator. Xong thoát ra và đăng nhập một lần nữa với tên Temp. Mở Windows Explorer và đến C:\Documents and Settings. Một trong hai folder con sẽ được đặt tên là Administrator (người quản trị hệ thống). Folder kia sẽ được đặt tên đại khái là Administrator computername.
Bạn chọn Start.Programs.Accessories.Command Prompt. Gõ cd ‘\documents and settings’ và ấn <Enter>. Sau đó gõ xcopy administrator\*.* administrator.computername /s/h/h/c, thay computername bằng phần cuối của tên folder đó (sau ‘Administrator.’) trong Documents and Settings. Bây giờ bạn ấn <Enter> và khi được hỏi về việc ghi đè các tập tin hoặc folder, bạn ấn a (All) cho tất cả.
Nếu có bất kỳ tên người dùng nào trong cài đặt cũ ngoài Administrator, bạn tiếp tục thực hiện theo mục ‘Đối với cả Windows XP và 2000′ bên dưới. Nếu không có, bạn mở Windows Explorer và kiểm tra để chắc chắn các tập tin dữ liệu đã nằm đúng chỗ. Sau đó dùng applet Users và Passwords của Control Panel và xoá tên người dùng Temp trước khi đi đến mục ‘Kết thúc công việc’.
Đối với cả Windows XP và 2000
Mở lại Windows Explorer. Chọn ổ đĩa C: (có thể phải nhấn Show the contents of this folder). Nhấn chuột phải trong khung bên phải, chọn New folder và đặt tên cho folder mới là oldstuff. Trong khung bên trái, chọn folder Documents and Settings. Nó phải có các folder con ứng với từng người dùng từ cài đặt trước cộng thêm một folder cho Temp và một số folder khác. Di chuyển các folder con ứng với những tên người dùng trước sang oldstuff.
Chọn Start.Control Panel.User Accounts (Start.Settings.Control Panel.Users and Passwords trong Windows 2000). Tạo tài khoản cho từng người dùng đã được đăng ký trước khi cài đặt lại. Kiểm tra lại để bảo đảm sử dụng đúng các tên. Chúng cũng trùng tên các folder bạn vừa di chuyển vào oldstuff (hình 2). Trong Windows XP, ít nhất một người dùng phải có quyền của người quản trị. Bạn thoát ra và đăng nhập lại với tên của từng người dùng, trước khi đăng nhập lại dưới tên Temp. Dùng Log Off chứ đừng dùng Switch User (chuyển đổi ngưới dùng) ở hộp thoại Log Off của Windows XP (điều này không có trong Windows 2000).
Đăng nhập dưới tên Temp, chọn Start.Programs.Accessories.Command Prompt (Start.All Programs.Accessories.Command Prompt trong XP), gõ xcopy c:\oldstuff\*.* ‘c:\documents and settings’ /s /h /r /c, và ấn <Enter>. Ấn phím a khi được hỏi có muốn ghi đè lên một tập tin hay không. Thoát khỏi Temp và đăng nhập vào từng tài khoản đã được phục hồi để kiểm tra chắc chắn tài liệu và dữ liệu của mọi người dùng đều nằm đúng chỗ. Đăng nhập là người quản trị và chạy applet User Accounts của Control Panel một lần nữa để loại bỏ người dùng Temp.
Kết thúc công việc
Đến đây bạn đã có Windows hoạt động, nhưng còn thiếu nhiều thứ khác. Có thể còn phải cài đặt lại máy in, card âm thanh v.v… Rất may, nếu driver cho các phần cứng này có kèm theo trong Windows hoặc trong CD phục hồi của nhà sản xuất, chắc chắn nó đã được cài đặt lại một cách tự động.
Bạn còn phải cài đặt lại các ứng dụng. Một số thiết lập của các ứng dụng sẽ không bị thay đổi bởi việc cài đặt lại, nhưng những thiết lập trước đây được lưu giữ trong Registry đều bị loại bỏ hết.
Khi kết nối Internet hoạt động trở lại, bạn đến windowsupdate.microsoft.com để tải xuống tất cả các bản cập nhật quan trọng cho phiên bản Windows của mình (hình 3). Sau đó đến thăm các Wesite của các hãng sản xuất phần cứng của bạn để cập nhật các driver.
Sau khi cài đặt lại, một số dữ liệu của bạn có thể xuất hiện không đúng chỗ. Tìm kiếm trong các folder Application Data và oldstuff và xem có thể chuyển chúng vào folder mà Windows hoặc các ứng dụng của bạn sẽ tìm chúng không. Nếu tìm thấy folder mang tên Identities có hai folder con mang tên dài và khó hiểu, hãy thử chuyển dữ liệu của 1 folder sang folder kia và xem dữ liệu của bạn có xuất hiện lại không.
Có thể bạn nghĩ bước kết thúc là xóa folder C:\oldstuff và cả folder Administrator trong Windows 2000. Hãy để việc đó lại sau. Bạn đợi vài ngày, vài tuần, thậm chí vài tháng sau, cho đến khi nào tin chắc tất cả các tập tin cần thiết đều có thể truy cập được.

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Bạn làm gì khi không vào XP được nữa?

Đây là một tình huống thường gặp nhất cho mọi bạn thích vọc máy, hay cài phần mềm mới, cài game chép từ bạn bè từ đĩa mềm có virus.
Bao gi, ờ bạn cũng nên chuẩn bị sẵn mọi thứ cho thật tốt cho tình huống xấu nhất này. Không biết làm gì hay chưa chuẩn bị sẵn cho chuyện ấy ư ?
Chỉ còn một cách duy nhất nhờ bạn bè rành vi tính hay mang đến tiệm cục CPU tổ chảng giúp mình ư? Nhưng rồi lỡ họ lại quá bận thì sao, làm thế nào bạn làm việc bình thường ngay đây ?
Bạn khao khát tự mình giải quyết sự cố ấy ư? Chỉ cần 1 tí kinh nghiệm và một ít tinh thần chuẩn bị thật tốt là bao cho bạn chỉ cần từ 1-3 phút sau là máy tính của bạn chở vào lại windows dễ dàng như trước thôi. Phải chuẩn bị những thứ gì cho tình huống tệ hại này đây?

I) Chuẩn bị vài công cụ cứu hộ sẵn dành có ngay khi trục trặc dùng được ngay:
1) Đĩa mềm auto bootable ( tự khởi động ) : Tải file boot98.rar từ Mega là http://www.megaupload.com/?d=UO45ZFK0 . Trích xuất bằngWinRAR 351, ra file boot98.IMA.
Dùng Winimage 80 open, đọc file boot98.IMA sau đó chọn Write to A. Chép vào đĩa mềm các file, giúp nó có tính auto boot. 2) 2) Đĩa Hiren boot CD 7.x ( mới là 79 ) tích hợp ngay cùng với các phần mềm, bán nhiều ở Tôn thấtTùng, Bùi Thị Xuân TP HCM.
3) Cây viết Flash Drive có tính autoboot to DOS bằng HP tools, có chứa sẳn file sysXPfat.com và bootpart.exe .
4) XP của bạn có sẵn DOS thực( xem lại bài Cài Hiren 79 vào ổ cứng để biết cách tạo thêm DOS thực cho XP).
Nhớ trong ổ C cũng lưu sẵn 2 files dành cứu hộ là SysXPfat.com và bootpart.exe
II) Có sẵn đồ nghề, không vào được XP bạn vẫn phục hồi
lại dễ dàng bằng một trong các cách sau đây:
Tuỳ theo bạn đã có sẵn dụng cụ cứu hộ loại nào, phải cho nó là phần boot đầu tiên tiên trước ổ cứng
Máy vừa mới khởi động vài giây, ấn ngay nút delete( hay nút khác tuỳ máy ) để vào BIOS( CMOS ) chọn lại boot 1st device( dụng cụ boot đầu tiên ). Tuỳ ý mình là đĩa mềm( Flopy disk ), hoặc CD_ROM, hoặc USB-HDD;save lại cấu hình mới chọn. Exit và reboot máy lại .
1) Cứu hộ bằng đĩa mềm: đút đĩa mềm vào ổ làm bằng boot 98IMA, cho boot đi đến dấu nhắc A:\>
a) Đánh lệnh từ đây sysXPfat C: Khi thấy dòng chữ thành công Successful và Congratulations là tốt rồi; cần reboot máy lại là xong, bạn sẽ vào WinXP lại tốt thôi.
b) Có thể thất bại trong 30o/o , bạn lại để đĩa mềm vào, đánh bootpart winnt boot: C:
Reboot máy, cũng vào được XP lại như cũ.
2) Bằng đĩa CD XP cài đặt: hản hữu lắm, bạn mới cần đến đĩa XP cài đặt này, chọn vào repair thay vì install và đánh lệnh F:\I386\winn32.exe /cmdcoms để vào phần Recovery console . ( F là tên ổ CDROM có đĩa CD XP ).
Đánh lệnh Fixboot C: để chỉnh lại phần boot của C ; vào XP được trở lại như cũ.
3) Nếu C bạn đã có DOS thực, cũng thử cứu hộ bằng 1 trong 2 lệnh sau SysXPfat C: hoặc
bootpart winnt boot: C:
4) Dùng cây viết USB cho boot vào C , USB FD( FD Flash Drive ) giờ có tên ổ C ; C có XP cũ đã chuyển qua tên mới D .
Dùng 2 file lưu trữ đã nòi trên cứu hộ, nhằm trở vào lại XP .
II) Đôi lúc làm như thế, bạn vẫn không vào WinXP được là khi ổ C của bạn có nhiều lost links, bad sector nào đó khiến một số file nào đó trong Windows bị corrupted ( huỷ hoại, hư ). Lúc ấy, bạn muốn vào WinXP lại chỉ còn cách dùng những bản sao lưu ổ C của bạn đã có trước đây như Ghost 80, Drive image 2002 hay True Image 80, chọn vào restore thành công. Reboot máy lại thì bạn mới có WinXP hoạt động bình thường lại thôi.
Nếu không chuẩn bị sẳn các bản sao lưu cho ổ này , bạn chỉ có cách cài lại WinXP từ đầu và các phần mềm khác mất cả ngày, chưa chắc có đủ như trước kia nhất là driver cũ không còn hay sao lưu để dành thì rất mệt đa..
1) Nếu có sẵn Hiren bootCD 79 , bạn để đĩa cứu hộ ấy vào cho boot . Chọn vào Ghost trong Disk clone tools hay True image 80 tuỳ theo bạn có lưu sẵn bản nào tốt dành cho C như gho hay TIB của True image .
Cứ chọn vào ghost hay True Image restore( phục hồi ) cho về đúng nơi cũ là C . Reboot máy lại, là vào XP như cũ.
Trong Hiren mới cũng có True Image 80, chọn vào đấy nếu bạn có sẵn file tib của TI 80 lưu sẵn trong ổ cứng. Phục hồi lại file TIB này lưu sẵn của ổ C , trở lại đúng vào C là xong .
2) Cây viết FD autoboot cũng cứu hộ được khi bạn có lưu sẵn file ghost.exe trong ổ E( giờ thành ra F do USB chiếm tên ổ C )
3 ) Trường hợp bạn biết làm ra BartPE, XPE, thì cứu hộ còn dễ dàng hơn với chạy Ghost 32 bit, cần với bản lưu qua cổng USB đều quá dễ dàng nhanh sau 2 phút
III) Bạn nên chuẩn bị sẵn các bản sao lưu ổ C như thế nào tốt nhất? Không bao giờ bạn nên sao lưu có 1 bản duy nhất của ổ C trong đĩa CD? Vì sao lại như vậy? CD của VN làm rất dễ hư và trầy đột xuất, nhất là khi bạn để chung trong túi ni lông cả chục đĩa hay để chúng chồng lên nhau.
Một khi đĩa đã trầy, hư như vậy khi đang phục hồi bằng Ghost hay Drive Image 2002 (Image center 56 ), dù gần xong đến 98o/o hay 99o/o chăng nữa: ổ C của bạn chắc chắn sẽ hư.
Máy bạn cũng hết boot được nữa và bạn cũng hết xài WinXP luôn. Nguy nhất đĩa CD trầy có lưu file pqi của Drive Image hay Image center: Lúc ấy ổ C sẽ mât tên, bạn khoan phục hồi lại vì chắc chắn sẽ nhầm chỗ . Phải vào ngay Partition Magic 805 trong Hiren tạo lại ổ C primary, active.
Phục hồi file pqi khác còn tốt, lúc ấy ổ C mới bình thường lại được
a) Nên chuẩn bị ít nhất là 2 bản Ghost hoặc Drive image( Image center 56 ) lưu trong 2 đĩa CD và cả trong ổ cứng , tốt nhất là luôn 1 bản nữa trong hộp ổ cứng USB. Lỡ hư đĩa CD này còn cái khác vẫn còn bản CD khác hay trong ổ USB mà restore ngay lại, không gì phải lo lắng.
b) Cần nhớ 1 điểm nữa: bao giờ bạn cũng nên chuyển My Documents( bài v,ở tư liệu, hình ảnh quí của bạn ) và các mail( thư từ trong Outlok Express hay Microsoft Outlook ) sang ổ E, F trước khi sao lưu để dành bằng các bản Ghost hay Drive image.
Nếu vài tháng hay cả năm bạn mới sao lưu 1 lần thì bản ấy quá cũ, khi phục hồi lại có các thư hoặc tài liệu mới có lưu trong ấy kể như tiêu.
c) Có nên Dùng Ghost 80 , Drive Image 2002 hoặc True Image 80?
Với các bạn chưa rành vi tính nhiều lắm, nên dùng Drive image 2002( hay Image center 56 ở Hiren 79 ) là an toàn nhất vì có sẵn nút kiểm để chọn thật đúng ổ C phục hồi lại, không bao giờ có chuyện nhầm.
Đối với các bạn quá rành không dùng đến chuột lúc phục hồi, dùng Ghost 82 phục hồi lại không có chuyện gì khó và nhầm.
Trái lại với newbie, Ghost có hình trong DOS tối tăm như ma quỉ, nếu người thích dùng chuột chọn lại: rất hay chạy lên xuống, dễ chọn nhầm nơi phục hồi nhất là các bạn chưa quen.
Bạn chỉ được phép dùng 4 nút: 1 tabs, 1 enter và 2 nút mũi tên lên xuống thay cho chuột lúc phục hồi bằng Ghost. Chọn sai chỗ phục hồi với ghost là tiêu tùng , máy tính của bạn hết khởi động đấy.
III) Có` nên dùng các phiên bản mới nhất Ghost 90,10 , Drive Image 703 , True Image 80 không?
Lời khuyên với các bạn là không nên dùng 2 anh đầu ? Vì sao? Norton Ghost 90 và Drive image 703 khi cài, phải có thêm Microsoft Frame .NET 2. 0, tốn thêm 70 MB và nó khi sao lưu ngay trong ổ C không biết lọc ra file hoán chuyển của XP là pagefile.sys khá lớn để giảm bớt kích thước file sao lưu ổ C: lên đến lớn vài GB không thể nào để trong một đĩa CD rồi. Lưu Bản ghost nếu trong nhiều đĩa CD , nguy cơ hư đột xuất ở 1 đĩa nào đó càng lớn hơn. Khi cần phục hồi , bạn phải mua đĩa CD dành riêng phục hồi cho chính Norton Ghost 90 hay Drive image 703, không có đành chịu thua thôi với các file có đuôi v2i, thật đặc biệt của chúng. Symantec không có chuyện chỉ bạn tự mình làm ra đĩa cứu hộ miễn phí, nhằm phục hồi như True Image 80 đâu nhé. Bạn nên dùng True Image 80 là tốt nhất, ngoài chuyện sao lưu thẳng trong ổ C, nó còn thông minh hơn biết loại file pagefile.sys của XP .lúc làm việc , nên kích thước file sao lưu dạng tib nhỏ hơn nhiều. Khi cần phục hồi lại( cứu hộ ) trong môi trường PE( Preinstallation Environment ), mà không phải là DOS trước khi vào lại Windows.
Bao giờ True Image cũng tử tế, sẵn sàng chỉ bạn cách làm 2 đĩa mềm hay đĩa CD miễn phí quá dễ dàng ở giao diện đầu tiên, ngay phần Tools\Create bootable Rescue media.
V) Kết luận: Cứu hộ máy tính của khi không khởi động vào WinXP là chuyện rất dễ xảy ra bất cứ lúc nào bạn không ngờ đến được.
Do vậy, để dành 2 files SysXpfat.com, Bootpart.exe, hay các bản sao lưu ở C bằng ghost, drive image ( image center ) là chuyện tối cần giúp bạn khỏi cần đến giúp đở của bất cứ ai một khi máy tính bạn trở chứng.
Bao giờ cũng nên nhớ phải có nhiều bản sao lưu bằng gho trong đĩa CD, ổ cứng và cả ổ cứng USB, nếu bạn có được.
Và không bao giờ bạn chỉ có 1 bản duy nhất trong CD, đó là điều tối nguy hiểm, rất dễ phải cài lại từ đầu mọi thứ từ XP tốn rất nhiều thời gian, mất vài ngày vẫn chưa xong..
Đây là một tình huống thường gặp nhất cho mọi bạn thích vọc máy, hay cài phần mềm mới, cài game chép từ bạn bè từ đĩa mềm có virus.
Bao gi, ờ bạn cũng nên chuẩn bị sẵn mọi thứ cho thật tốt cho tình huống xấu nhất này. Không biết làm gì hay chưa chuẩn bị sẵn cho chuyện ấy ư ?
Chỉ còn một cách duy nhất nhờ bạn bè rành vi tính hay mang đến tiệm cục CPU tổ chảng giúp mình ư? Nhưng rồi lỡ họ lại quá bận thì sao, làm thế nào bạn làm việc bình thường ngay đây ?
Bạn khao khát tự mình giải quyết sự cố ấy ư? Chỉ cần 1 tí kinh nghiệm và một ít tinh thần chuẩn bị thật tốt là bao cho bạn chỉ cần từ 1-3 phút sau là máy tính của bạn chở vào lại windows dễ dàng như trước thôi. Phải chuẩn bị những thứ gì cho tình huống tệ hại này đây?

I) Chuẩn bị vài công cụ cứu hộ sẵn dành có ngay khi trục trặc dùng được ngay:
1) Đĩa mềm auto bootable ( tự khởi động ) : Tải file boot98.rar từ Mega là http://www.megaupload.com/?d=UO45ZFK0 . Trích xuất bằngWinRAR 351, ra file boot98.IMA.
Dùng Winimage 80 open, đọc file boot98.IMA sau đó chọn Write to A. Chép vào đĩa mềm các file, giúp nó có tính auto boot. 2) 2) Đĩa Hiren boot CD 7.x ( mới là 79 ) tích hợp ngay cùng với các phần mềm, bán nhiều ở Tôn thấtTùng, Bùi Thị Xuân TP HCM.
3) Cây viết Flash Drive có tính autoboot to DOS bằng HP tools, có chứa sẳn file sysXPfat.com và bootpart.exe .
4) XP của bạn có sẵn DOS thực( xem lại bài Cài Hiren 79 vào ổ cứng để biết cách tạo thêm DOS thực cho XP).
Nhớ trong ổ C cũng lưu sẵn 2 files dành cứu hộ là SysXPfat.com và bootpart.exe
II) Có sẵn đồ nghề, không vào được XP bạn vẫn phục hồi
lại dễ dàng bằng một trong các cách sau đây:
Tuỳ theo bạn đã có sẵn dụng cụ cứu hộ loại nào, phải cho nó là phần boot đầu tiên tiên trước ổ cứng
Máy vừa mới khởi động vài giây, ấn ngay nút delete( hay nút khác tuỳ máy ) để vào BIOS( CMOS ) chọn lại boot 1st device( dụng cụ boot đầu tiên ). Tuỳ ý mình là đĩa mềm( Flopy disk ), hoặc CD_ROM, hoặc USB-HDD;save lại cấu hình mới chọn. Exit và reboot máy lại .
1) Cứu hộ bằng đĩa mềm: đút đĩa mềm vào ổ làm bằng boot 98IMA, cho boot đi đến dấu nhắc A:\>
a) Đánh lệnh từ đây sysXPfat C: Khi thấy dòng chữ thành công Successful và Congratulations là tốt rồi; cần reboot máy lại là xong, bạn sẽ vào WinXP lại tốt thôi.
b) Có thể thất bại trong 30o/o , bạn lại để đĩa mềm vào, đánh bootpart winnt boot: C:
Reboot máy, cũng vào được XP lại như cũ.
2) Bằng đĩa CD XP cài đặt: hản hữu lắm, bạn mới cần đến đĩa XP cài đặt này, chọn vào repair thay vì install và đánh lệnh F:\I386\winn32.exe /cmdcoms để vào phần Recovery console . ( F là tên ổ CDROM có đĩa CD XP ).
Đánh lệnh Fixboot C: để chỉnh lại phần boot của C ; vào XP được trở lại như cũ.
3) Nếu C bạn đã có DOS thực, cũng thử cứu hộ bằng 1 trong 2 lệnh sau SysXPfat C: hoặc
bootpart winnt boot: C:
4) Dùng cây viết USB cho boot vào C , USB FD( FD Flash Drive ) giờ có tên ổ C ; C có XP cũ đã chuyển qua tên mới D .
Dùng 2 file lưu trữ đã nòi trên cứu hộ, nhằm trở vào lại XP .
II) Đôi lúc làm như thế, bạn vẫn không vào WinXP được là khi ổ C của bạn có nhiều lost links, bad sector nào đó khiến một số file nào đó trong Windows bị corrupted ( huỷ hoại, hư ). Lúc ấy, bạn muốn vào WinXP lại chỉ còn cách dùng những bản sao lưu ổ C của bạn đã có trước đây như Ghost 80, Drive image 2002 hay True Image 80, chọn vào restore thành công. Reboot máy lại thì bạn mới có WinXP hoạt động bình thường lại thôi.
Nếu không chuẩn bị sẳn các bản sao lưu cho ổ này , bạn chỉ có cách cài lại WinXP từ đầu và các phần mềm khác mất cả ngày, chưa chắc có đủ như trước kia nhất là driver cũ không còn hay sao lưu để dành thì rất mệt đa..
1) Nếu có sẵn Hiren bootCD 79 , bạn để đĩa cứu hộ ấy vào cho boot . Chọn vào Ghost trong Disk clone tools hay True image 80 tuỳ theo bạn có lưu sẵn bản nào tốt dành cho C như gho hay TIB của True image .
Cứ chọn vào ghost hay True Image restore( phục hồi ) cho về đúng nơi cũ là C . Reboot máy lại, là vào XP như cũ.
Trong Hiren mới cũng có True Image 80, chọn vào đấy nếu bạn có sẵn file tib của TI 80 lưu sẵn trong ổ cứng. Phục hồi lại file TIB này lưu sẵn của ổ C , trở lại đúng vào C là xong .
2) Cây viết FD autoboot cũng cứu hộ được khi bạn có lưu sẵn file ghost.exe trong ổ E( giờ thành ra F do USB chiếm tên ổ C )
3 ) Trường hợp bạn biết làm ra BartPE, XPE, thì cứu hộ còn dễ dàng hơn với chạy Ghost 32 bit, cần với bản lưu qua cổng USB đều quá dễ dàng nhanh sau 2 phút
III) Bạn nên chuẩn bị sẵn các bản sao lưu ổ C như thế nào tốt nhất? Không bao giờ bạn nên sao lưu có 1 bản duy nhất của ổ C trong đĩa CD? Vì sao lại như vậy? CD của VN làm rất dễ hư và trầy đột xuất, nhất là khi bạn để chung trong túi ni lông cả chục đĩa hay để chúng chồng lên nhau.
Một khi đĩa đã trầy, hư như vậy khi đang phục hồi bằng Ghost hay Drive Image 2002 (Image center 56 ), dù gần xong đến 98o/o hay 99o/o chăng nữa: ổ C của bạn chắc chắn sẽ hư.
Máy bạn cũng hết boot được nữa và bạn cũng hết xài WinXP luôn. Nguy nhất đĩa CD trầy có lưu file pqi của Drive Image hay Image center: Lúc ấy ổ C sẽ mât tên, bạn khoan phục hồi lại vì chắc chắn sẽ nhầm chỗ . Phải vào ngay Partition Magic 805 trong Hiren tạo lại ổ C primary, active.
Phục hồi file pqi khác còn tốt, lúc ấy ổ C mới bình thường lại được
a) Nên chuẩn bị ít nhất là 2 bản Ghost hoặc Drive image( Image center 56 ) lưu trong 2 đĩa CD và cả trong ổ cứng , tốt nhất là luôn 1 bản nữa trong hộp ổ cứng USB. Lỡ hư đĩa CD này còn cái khác vẫn còn bản CD khác hay trong ổ USB mà restore ngay lại, không gì phải lo lắng.
b) Cần nhớ 1 điểm nữa: bao giờ bạn cũng nên chuyển My Documents( bài v,ở tư liệu, hình ảnh quí của bạn ) và các mail( thư từ trong Outlok Express hay Microsoft Outlook ) sang ổ E, F trước khi sao lưu để dành bằng các bản Ghost hay Drive image.
Nếu vài tháng hay cả năm bạn mới sao lưu 1 lần thì bản ấy quá cũ, khi phục hồi lại có các thư hoặc tài liệu mới có lưu trong ấy kể như tiêu.
c) Có nên Dùng Ghost 80 , Drive Image 2002 hoặc True Image 80?
Với các bạn chưa rành vi tính nhiều lắm, nên dùng Drive image 2002( hay Image center 56 ở Hiren 79 ) là an toàn nhất vì có sẵn nút kiểm để chọn thật đúng ổ C phục hồi lại, không bao giờ có chuyện nhầm.
Đối với các bạn quá rành không dùng đến chuột lúc phục hồi, dùng Ghost 82 phục hồi lại không có chuyện gì khó và nhầm.
Trái lại với newbie, Ghost có hình trong DOS tối tăm như ma quỉ, nếu người thích dùng chuột chọn lại: rất hay chạy lên xuống, dễ chọn nhầm nơi phục hồi nhất là các bạn chưa quen.
Bạn chỉ được phép dùng 4 nút: 1 tabs, 1 enter và 2 nút mũi tên lên xuống thay cho chuột lúc phục hồi bằng Ghost. Chọn sai chỗ phục hồi với ghost là tiêu tùng , máy tính của bạn hết khởi động đấy.
III) Có` nên dùng các phiên bản mới nhất Ghost 90,10 , Drive Image 703 , True Image 80 không?
Lời khuyên với các bạn là không nên dùng 2 anh đầu ? Vì sao? Norton Ghost 90 và Drive image 703 khi cài, phải có thêm Microsoft Frame .NET 2. 0, tốn thêm 70 MB và nó khi sao lưu ngay trong ổ C không biết lọc ra file hoán chuyển của XP là pagefile.sys khá lớn để giảm bớt kích thước file sao lưu ổ C: lên đến lớn vài GB không thể nào để trong một đĩa CD rồi. Lưu Bản ghost nếu trong nhiều đĩa CD , nguy cơ hư đột xuất ở 1 đĩa nào đó càng lớn hơn. Khi cần phục hồi , bạn phải mua đĩa CD dành riêng phục hồi cho chính Norton Ghost 90 hay Drive image 703, không có đành chịu thua thôi với các file có đuôi v2i, thật đặc biệt của chúng. Symantec không có chuyện chỉ bạn tự mình làm ra đĩa cứu hộ miễn phí, nhằm phục hồi như True Image 80 đâu nhé. Bạn nên dùng True Image 80 là tốt nhất, ngoài chuyện sao lưu thẳng trong ổ C, nó còn thông minh hơn biết loại file pagefile.sys của XP .lúc làm việc , nên kích thước file sao lưu dạng tib nhỏ hơn nhiều. Khi cần phục hồi lại( cứu hộ ) trong môi trường PE( Preinstallation Environment ), mà không phải là DOS trước khi vào lại Windows.
Bao giờ True Image cũng tử tế, sẵn sàng chỉ bạn cách làm 2 đĩa mềm hay đĩa CD miễn phí quá dễ dàng ở giao diện đầu tiên, ngay phần Tools\Create bootable Rescue media.
V) Kết luận: Cứu hộ máy tính của khi không khởi động vào WinXP là chuyện rất dễ xảy ra bất cứ lúc nào bạn không ngờ đến được.
Do vậy, để dành 2 files SysXpfat.com, Bootpart.exe, hay các bản sao lưu ở C bằng ghost, drive image ( image center ) là chuyện tối cần giúp bạn khỏi cần đến giúp đở của bất cứ ai một khi máy tính bạn trở chứng.
Bao giờ cũng nên nhớ phải có nhiều bản sao lưu bằng gho trong đĩa CD, ổ cứng và cả ổ cứng USB, nếu bạn có được.
Và không bao giờ bạn chỉ có 1 bản duy nhất trong CD, đó là điều tối nguy hiểm, rất dễ phải cài lại từ đầu mọi thứ từ XP tốn rất nhiều thời gian, mất vài ngày vẫn chưa xong..