Thủ thuật SEO SEO mũ trắng

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2010

SSDG-Trắc nghiệm và rèn luyện trí thông minh

IQ là gì? IQ là ký hiệu lấy hai chữ cái đầu của từ tiếng Anh là “Intelligence Quotient”, thường dịch là thương số trí tuệ hay còn gọi là chỉ số thông minh. Chỉ số này của mỗi người nói lên năng lực trí tuệ của người đó. Để có phương pháp đo IQ một cách khoa học, ta cần tìm hiểu định nghĩa thuật ngữ “trí thông minh”.
Ebook gồm 12 phần:
Phần 01: Tìm hiểu về IQ và thiên tài
Phần 02: Tìm hiểu các hình thái của trí thông minh
Phần 03: Giới thiệu các yếu tố của trí thông minh
Phần 04: Những khả năng xác định trí thông minh
Phần 05: kiểm tra thương số trí tuệcủa bạn
Phần 06: Tự khám phá chỉ số thông minh của bạn


Phần 07: Truyện kể về những người thông minh tài giỏi
Phần 08: Cách giúp bạn luyện tập trí thông minh
Phần 09: Những trò chơi lạ đòi hỏi trí thông minh
Phần 10: Mục đố vui thông minh
Phần 11: Mục thử tài thông minh hấp dẫn
Phần 12: Thư giãn với nhiều bài hát hay
Bản quyền thuộc về SSDG – Nhóm Phát Triển Phần Mềm Sinh Viên Học Sinh. Nếu có điều kiện, bạn hãy mua phần mềm có bản quyền.
http://www.mediafire.com/?m7rn03pmud9eyqa
http://www.mediafire.com/?lqc2bz21lbsl0bb
http://www.mediafire.com/?rmjjjy4ew8032gh
IQ là gì? IQ là ký hiệu lấy hai chữ cái đầu của từ tiếng Anh là “Intelligence Quotient”, thường dịch là thương số trí tuệ hay còn gọi là chỉ số thông minh. Chỉ số này của mỗi người nói lên năng lực trí tuệ của người đó. Để có phương pháp đo IQ một cách khoa học, ta cần tìm hiểu định nghĩa thuật ngữ “trí thông minh”.
Ebook gồm 12 phần:
Phần 01: Tìm hiểu về IQ và thiên tài
Phần 02: Tìm hiểu các hình thái của trí thông minh
Phần 03: Giới thiệu các yếu tố của trí thông minh
Phần 04: Những khả năng xác định trí thông minh
Phần 05: kiểm tra thương số trí tuệcủa bạn
Phần 06: Tự khám phá chỉ số thông minh của bạn


Phần 07: Truyện kể về những người thông minh tài giỏi
Phần 08: Cách giúp bạn luyện tập trí thông minh
Phần 09: Những trò chơi lạ đòi hỏi trí thông minh
Phần 10: Mục đố vui thông minh
Phần 11: Mục thử tài thông minh hấp dẫn
Phần 12: Thư giãn với nhiều bài hát hay
Bản quyền thuộc về SSDG – Nhóm Phát Triển Phần Mềm Sinh Viên Học Sinh. Nếu có điều kiện, bạn hãy mua phần mềm có bản quyền.
http://www.mediafire.com/?m7rn03pmud9eyqa
http://www.mediafire.com/?lqc2bz21lbsl0bb
http://www.mediafire.com/?rmjjjy4ew8032gh

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2010

Tự làm một đĩa boot mạng

Chắc có lẽ chúng ta khi thiết lập một hệ thống mạng đều ngại nhất là công việc cài đặt hệ điều hành cho từng máy trong mạng.Nếu chúng ta không biết sắp xếp công việc thì việc cài đặt sẽ chiếm rất nhiều thời gian và công sức,có khi hiệu quả đạt được không cao.
Giả sử chúng ta phải thiết lập một hệ thống mạng gồm 1 máy Server và 30 máy Client.Yêu cầu cho việc cài đặt:
-Server sử dụng Windows 2000 Server(hay NT 4.0 Server).
-Các Client sử dụng Windows 2000 Pro hay 1 hệ điều hành nào khác.
Hướng giải quyết công việc:
-Cách 1:Chúng ta phải cài đặt cho từng máy:cài Server trước sau đó cài đặt cho từng Client trong mạng.Quá
mất thời gian và chi phí cao do mỗi Client đều phải cần 1 ổ đĩa CD-Rom.
-Cách 2:Sử dụng công nghệ RIS(Remote Installation Service).Cách này thực sự hữu ích tuy nhiên có 1 nhược điểm là Server phải sử dụng hệ điều hành Windows 2000 Server,các Client chỉ có thể cài đặt hệ điều hành Windows 2000 Pro và card mạng phải hỗ trợ Rom Boot theo chuẩn PXE.Tuy nhiên không phải card mạng nào cũng hỗ trợ Rom Boot.Trong trường hợp đó thì RIS không phải là cách hay.
-Cách 3:Chúng ta sẽ tiến hành làm 1 đĩa mềm có thể Boot mạng từ DOS.Sau đó chúng ta sẽ cho các máy Client cài đặt hệ điều hành từ source trên Server. Đây thực sự là 1 cách hữu ích.Bởi vì yêu cầu về phần cứng không cao và các máy Client có thể cài đặt bất kỳ hệ điều hành nào.
Ở đây chúng ta có 2 cách để tạo đĩa Boot mạng.Một là sử dụng Norton Ghost 2003,hai là sử dụng tiện ích NETSETUP trong bộ đĩa cài đặt Windows NT 4.0 Server (mở đĩa Windows NT 4.0 Server vào ..\CLIENTS\MSCLIENT\NETSETUP chạy file Setup.exe).Trong bài này tôi xin giới thiệu phương pháp làm đĩa Boot mạng sử dụng phần mềm Norton Ghost 2003.
Làm đĩa Boot mạng sử dụng Norton Ghost 2003:
Trước hết chúng ta phải cài đặt hệ điều hành cho Server. Ở đây Server sẽ sử dụng Windows 2000 Server.Kế tiếp chúng ta phải nâng cấp lên Active Directory(vào Start\Run\DCPROMO rồi enter).Sau khi nâng cấp lên Active Directory chúng ta phải cấu hình DNS Server và DHCP Server để Server cấp phát IP cho các Client.
Kế đó chúng ta sẽ tạo user để sử dụng cho việc Boot mạng từ DOS. Ở đây chúng ta phải tạo một thư mục để chép bộ Source cài đặt hệ điều hành (có thể sử dụng file Ghost của bất kỳ hệ điều hành nào).Thư mục này phải được share để cho các Client khi Boot vào mạng có thể truy cập được.
Cuối cùng là chúng ta tiến hành cài đặt Norton Ghost 2003 (lưu ý là chỉ có phiên bản 2003 mới hỗ trợ việc làm đĩa Boot mạng).Sau khi cài đặt xong chúng ta mở Norton Ghost 2003 lên,như hình bên dưới:
Chúng ta chọn mục Ghost Utilities.Bảng Norton Ghost Boot Wizard xuất hiện:
Kế tiếp chúng ta chọn tiếp “Drive Mapping Boot Disk”,rồi Click Next.
Ở bảng này chúng ta sẽ thấy các Driver card mạng được hỗ trợ để làm đĩa Boot.Nếu chúng ta sử dụng 1 loại card mạng khác không có trong mục này,chúng ta có thể chọn nút Add để bổ sung thêm.Click Next để tiếp tục.
Click Next để tiếp tục.
Kế tiếp bảng Norton Ghost Boot Wizard-Network Client Configuration xuất hiện.Chúng ta cần điền đầy đủ cho các mục này.
-Client Computer Name:tên máy Client.
-User name:tên người sử dụng,có thể sử dụng tên Administrator hay chúng ta phải tạo 1 tài khoản riêng(sử dụng Server để tạo tài khoản người dùng).
-Domain:tên domain sau khi chúng ta đã nâng cấp lên Active Directory.
-Drive Letter:tên ổ đĩa mà Server đã chép Source cài đặt và share trên mạng.
-Map To: đường dẫn đến thư mục mà Server đã share.
Click Next tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuât hiện,hỏi chúng ta cấp phát địa chỉ IP bằng dịch vụ DHCP hoặc cấp phát bằng tay. Ở đây do chúng ta đã cài đặt DHCP Server nên chúng ta chọn:”DHCP will assign the IP settings”.Click Next để tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuất hiện,chúng ta chọn các thông số cho phù hợp rồi Click Next.
Bảng trên sẽ cho chúng ta xem rõ chi tiết của các file như Autoxec.bat hay Config.sys.Click Next để cho công việc tạo đĩa bắt đầu.Cuối cùng là nhấn Finish để hoàn thành việc tạo đĩa.
Sau khi hoàn thành,chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cài đặt 1 hệ thống mạng mà không phải tốn nhiều thời gian và công sức cũng như tiền bạc.Chúc các bạn thành công.
Chắc có lẽ chúng ta khi thiết lập một hệ thống mạng đều ngại nhất là công việc cài đặt hệ điều hành cho từng máy trong mạng.Nếu chúng ta không biết sắp xếp công việc thì việc cài đặt sẽ chiếm rất nhiều thời gian và công sức,có khi hiệu quả đạt được không cao.
Giả sử chúng ta phải thiết lập một hệ thống mạng gồm 1 máy Server và 30 máy Client.Yêu cầu cho việc cài đặt:
-Server sử dụng Windows 2000 Server(hay NT 4.0 Server).
-Các Client sử dụng Windows 2000 Pro hay 1 hệ điều hành nào khác.
Hướng giải quyết công việc:
-Cách 1:Chúng ta phải cài đặt cho từng máy:cài Server trước sau đó cài đặt cho từng Client trong mạng.Quá
mất thời gian và chi phí cao do mỗi Client đều phải cần 1 ổ đĩa CD-Rom.
-Cách 2:Sử dụng công nghệ RIS(Remote Installation Service).Cách này thực sự hữu ích tuy nhiên có 1 nhược điểm là Server phải sử dụng hệ điều hành Windows 2000 Server,các Client chỉ có thể cài đặt hệ điều hành Windows 2000 Pro và card mạng phải hỗ trợ Rom Boot theo chuẩn PXE.Tuy nhiên không phải card mạng nào cũng hỗ trợ Rom Boot.Trong trường hợp đó thì RIS không phải là cách hay.
-Cách 3:Chúng ta sẽ tiến hành làm 1 đĩa mềm có thể Boot mạng từ DOS.Sau đó chúng ta sẽ cho các máy Client cài đặt hệ điều hành từ source trên Server. Đây thực sự là 1 cách hữu ích.Bởi vì yêu cầu về phần cứng không cao và các máy Client có thể cài đặt bất kỳ hệ điều hành nào.
Ở đây chúng ta có 2 cách để tạo đĩa Boot mạng.Một là sử dụng Norton Ghost 2003,hai là sử dụng tiện ích NETSETUP trong bộ đĩa cài đặt Windows NT 4.0 Server (mở đĩa Windows NT 4.0 Server vào ..\CLIENTS\MSCLIENT\NETSETUP chạy file Setup.exe).Trong bài này tôi xin giới thiệu phương pháp làm đĩa Boot mạng sử dụng phần mềm Norton Ghost 2003.
Làm đĩa Boot mạng sử dụng Norton Ghost 2003:
Trước hết chúng ta phải cài đặt hệ điều hành cho Server. Ở đây Server sẽ sử dụng Windows 2000 Server.Kế tiếp chúng ta phải nâng cấp lên Active Directory(vào Start\Run\DCPROMO rồi enter).Sau khi nâng cấp lên Active Directory chúng ta phải cấu hình DNS Server và DHCP Server để Server cấp phát IP cho các Client.
Kế đó chúng ta sẽ tạo user để sử dụng cho việc Boot mạng từ DOS. Ở đây chúng ta phải tạo một thư mục để chép bộ Source cài đặt hệ điều hành (có thể sử dụng file Ghost của bất kỳ hệ điều hành nào).Thư mục này phải được share để cho các Client khi Boot vào mạng có thể truy cập được.
Cuối cùng là chúng ta tiến hành cài đặt Norton Ghost 2003 (lưu ý là chỉ có phiên bản 2003 mới hỗ trợ việc làm đĩa Boot mạng).Sau khi cài đặt xong chúng ta mở Norton Ghost 2003 lên,như hình bên dưới:
Chúng ta chọn mục Ghost Utilities.Bảng Norton Ghost Boot Wizard xuất hiện:
Kế tiếp chúng ta chọn tiếp “Drive Mapping Boot Disk”,rồi Click Next.
Ở bảng này chúng ta sẽ thấy các Driver card mạng được hỗ trợ để làm đĩa Boot.Nếu chúng ta sử dụng 1 loại card mạng khác không có trong mục này,chúng ta có thể chọn nút Add để bổ sung thêm.Click Next để tiếp tục.
Click Next để tiếp tục.
Kế tiếp bảng Norton Ghost Boot Wizard-Network Client Configuration xuất hiện.Chúng ta cần điền đầy đủ cho các mục này.
-Client Computer Name:tên máy Client.
-User name:tên người sử dụng,có thể sử dụng tên Administrator hay chúng ta phải tạo 1 tài khoản riêng(sử dụng Server để tạo tài khoản người dùng).
-Domain:tên domain sau khi chúng ta đã nâng cấp lên Active Directory.
-Drive Letter:tên ổ đĩa mà Server đã chép Source cài đặt và share trên mạng.
-Map To: đường dẫn đến thư mục mà Server đã share.
Click Next tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuât hiện,hỏi chúng ta cấp phát địa chỉ IP bằng dịch vụ DHCP hoặc cấp phát bằng tay. Ở đây do chúng ta đã cài đặt DHCP Server nên chúng ta chọn:”DHCP will assign the IP settings”.Click Next để tiếp tục.
Bảng kế tiếp xuất hiện,chúng ta chọn các thông số cho phù hợp rồi Click Next.
Bảng trên sẽ cho chúng ta xem rõ chi tiết của các file như Autoxec.bat hay Config.sys.Click Next để cho công việc tạo đĩa bắt đầu.Cuối cùng là nhấn Finish để hoàn thành việc tạo đĩa.
Sau khi hoàn thành,chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cài đặt 1 hệ thống mạng mà không phải tốn nhiều thời gian và công sức cũng như tiền bạc.Chúc các bạn thành công.

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2010

Ngôn ngữ Python là gì ? ( Bài 2: Lịch sử phát triển của Python.)

II. Lịch sử phát triển của Python.
Sự phát triển Python đến nay có thể chia làm các giai đoạn:
  • Python 1: bao gồm các bản phát hành 1.x. Giai đoạn này, kéo dài từ đầu đến cuối thập niên 1990. Từ năm 1990 đến 1995, Guido làm việc tại CWI (Centrum voor Wiskunde en Informatica - Trung tâm Toán-Tin học) tại Amsterdam, Hà Lan. Vì nguyên nhân này, các phiên bản Python đầu tiên đều do CWI phát hành. Phiên bản cuối cùng phát hành tại CWI là 1.2.
    • Vào năm 1995, Guido chuyển sang Corporation for National Research Initiatives (CNRI) ở Reston, Virginia. Tại đây, ông phát hành một số phiên bản khác. Python 1.6 là phiên bản cuối cùng phát hành tại CNRI.
    • Sau bản phát hành 1.6, Guido rời bỏ CNRI để làm việc với các lập trình viên chuyên viết phần mềm thương mại. Tại đây, ông có ý tưởng sử dụng Python với các phần mềm tuân theo chuẩn GPL. Sau đó, CNRI và Free Software Foundation (FSF) đã cùng nhau hợp tác để làm bản quyền Python phù hợp với GPL. Cùng năm đó, Guido được nhận giải thưởng FSF Award for the Advancement of Free Software.
    • Phiên bản 1.6.1 ra đời sau đó là phiên bản đâu tiền tuân theo bản quyền GPL. Tuy nhiên, bản này hoàn toàn giống bản 1.6, trừ một số sửa lỗi cần thiết.
  • Python 2: Vào năm 2000, Guido và nhóm phát triển Python dời đến BeOpen.com và thành lập BeOpen PythonLabs team. Phiên bản Python 2.0 được phát hành tại đây. Sau khi phát hành Python 2.0, Guido và các thành viên PythonLabs gia nhập Digital Creations.
    • Python 2.1 ra đời kế thừa từ Python 1.6.1 và Python 2.0. Bản quyền của phiên bản này được đổi thành Python Software Foundation License. Từ thời điểm này trở đi, Python thuộc sở hữu của Python Software Foundation (PSF), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập theo mẫu Apache Software Foundation.
  • Python 3: Về sự phát triển của Python trong tương lai, các nhà phát triển vẫn đang thảo luận về phiên bản mới: Python 3.0 (dự án gọi là Python 3000 hoặc Py3K). Dự kiến, dòng 3.x sẽ không hoàn toàn tương thích với dòng 2.x. Nhóm phát triển cho biết sẽ lấp những chỗ hở của ngôn ngữ. Nguyên tắc chủ đạo để phát triển Python 3.x là "bỏ cách làm việc cũ nhằm hạn chế trùng lặp về mặt chức năng của Python". Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kế hoạch cụ thể cho phát triển Python 3.

II. Lịch sử phát triển của Python.
Sự phát triển Python đến nay có thể chia làm các giai đoạn:
  • Python 1: bao gồm các bản phát hành 1.x. Giai đoạn này, kéo dài từ đầu đến cuối thập niên 1990. Từ năm 1990 đến 1995, Guido làm việc tại CWI (Centrum voor Wiskunde en Informatica - Trung tâm Toán-Tin học) tại Amsterdam, Hà Lan. Vì nguyên nhân này, các phiên bản Python đầu tiên đều do CWI phát hành. Phiên bản cuối cùng phát hành tại CWI là 1.2.
    • Vào năm 1995, Guido chuyển sang Corporation for National Research Initiatives (CNRI) ở Reston, Virginia. Tại đây, ông phát hành một số phiên bản khác. Python 1.6 là phiên bản cuối cùng phát hành tại CNRI.
    • Sau bản phát hành 1.6, Guido rời bỏ CNRI để làm việc với các lập trình viên chuyên viết phần mềm thương mại. Tại đây, ông có ý tưởng sử dụng Python với các phần mềm tuân theo chuẩn GPL. Sau đó, CNRI và Free Software Foundation (FSF) đã cùng nhau hợp tác để làm bản quyền Python phù hợp với GPL. Cùng năm đó, Guido được nhận giải thưởng FSF Award for the Advancement of Free Software.
    • Phiên bản 1.6.1 ra đời sau đó là phiên bản đâu tiền tuân theo bản quyền GPL. Tuy nhiên, bản này hoàn toàn giống bản 1.6, trừ một số sửa lỗi cần thiết.
  • Python 2: Vào năm 2000, Guido và nhóm phát triển Python dời đến BeOpen.com và thành lập BeOpen PythonLabs team. Phiên bản Python 2.0 được phát hành tại đây. Sau khi phát hành Python 2.0, Guido và các thành viên PythonLabs gia nhập Digital Creations.
    • Python 2.1 ra đời kế thừa từ Python 1.6.1 và Python 2.0. Bản quyền của phiên bản này được đổi thành Python Software Foundation License. Từ thời điểm này trở đi, Python thuộc sở hữu của Python Software Foundation (PSF), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập theo mẫu Apache Software Foundation.
  • Python 3: Về sự phát triển của Python trong tương lai, các nhà phát triển vẫn đang thảo luận về phiên bản mới: Python 3.0 (dự án gọi là Python 3000 hoặc Py3K). Dự kiến, dòng 3.x sẽ không hoàn toàn tương thích với dòng 2.x. Nhóm phát triển cho biết sẽ lấp những chỗ hở của ngôn ngữ. Nguyên tắc chủ đạo để phát triển Python 3.x là "bỏ cách làm việc cũ nhằm hạn chế trùng lặp về mặt chức năng của Python". Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kế hoạch cụ thể cho phát triển Python 3.

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2010

Quyển sách cho ai thích viễn tưởng :The 100 next years

Vừa rồi bạn nào quan tâm có thể thấy BáoĐấtViệt có đăng bài về sự dự đoán của George Friedman.Đọc mới nhớ lại là có ebook đó,nên hôm nay chia sẻ.Tuần Việt Nam đã đăng và điểm qua cuốn sách, giới thiệu nhiều góc nhìn qua một số bài viết và trích dịch những đoạn phân tích của Friedman.Có vẽ thú vị cho những ai thích khoa học viễn tưởng đấy.Nghe cứ như nhà tiên tri VanGa nhỉ
Download:Downloads
Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ liên minh chống Mỹ. Ngược lại, Ba Lan lại trở
thành đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Mexico giành được trung tâm thế giới, chiến tranh thế giới thứ III diễn ra trong không gian. Nghe có vẻ lạ ư? Tất cả đều có thể xảy ra…
Dù xuất bản từ khá lâu, “100 next years” của Friedman đưa ra những dự báo mạnh bạo nhưng có cơ sở rõ ràng vẫn được nhiều bạn đọc đánh giá cao.Vào năm 1492, Columbus dẫn đoàn thuyền đi về phía Tây. Năm 1991, Liên Xô tan rã. Cả hai sự kiện này tạo nên một thời đại của châu Âu.
Người Maya từng sống mà không quan tâm đến người Mông Cổ – những người không biết đến Zulus. Kể từ thế kỷ 15, những cường quốc châu Âu mở rộng quyền lực ra khắp thế giới, tạo nên một hệ thống địa chính trị toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử loài người, tính đến thời điểm mà số phận của những thổ dân Australia bị đặt dưới những chính sách của người Anh ở Ireland và giá bánh mỳ của Pháp phụ thuộc vào thời tiết ở Minnesota.
Châu Âu đồng thời tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài 500 năm với sự gia tăng của nạn bạo lực trong quần chúng, cho đến thế kỉ 20, khi chính Âu châu tự chia tách và đánh mất quyền kiểm soát thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, không còn quốc gia nào có thể xem là một cường quốc toàn cầu bậc nhất nữa.
Còn một sự kiện chưa từng có khác diễn ra khoảng một thập kỷ trước đó. Trong suốt 500 năm, quốc gia nào kiểm soát được Bắc Đại Tây Dương cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát cửa ngõ ra thế giới của châu Âu, cùng với nó là kiểm soát thương mại toàn cầu.
Đến năm 1980, địa thương mại chuyển hướng khiến Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trở nên quan trọng không kém. Mọi cường quốc thông trực tiếp với hai đại dương này đều có được những lợi thế đặc biệt. Bắc Mỹ trở thành trục của hệ thống toàn cầu, và bất kì cường quốc nào thống trị Bắc Mỹ cũng trở thành trung tâm hấp dẫn. Tất nhiên, cường quốc đó chính là Mỹ.
Vị trí địa lý cùng với khả năng tận dụng nó tạo nên những lợi thế kể trên. Nhờ vị trí địa lý, nước Mỹ không bị đe dọa bởi những cuộc tấn công cả ở đất liền và trên biển. Tuy dễ bị tấn công khủng bố nhưng nó nằm ngoài tầm hạt nhân, không phải chịu bất cứ đe dọa nào như Anh và Pháp hồi năm 1940 – 41, hay như Đức và Nhật Bản năm 1944 – 45.
Một phần lợi thế của nó là nhờ đứng trung lập với những nước tham chiến khiến Mỹ thực sự được hưởng lợi từ Thế chiến thứ 2. Nhờ vậy, Mỹ nổi lên với nền tảng hiện đại hóa công nghiệp triệt để.
Lịch sử chứng minh có những điều người ta từng nghĩ là không thể thì hoàn toàn có thể xảy ra. Và nếu chú ý quan sát, có thể thấy tất cả những “điều không tưởng” kia đều có những nguồn gốc lịch sử và địa chính trị rõ ràng như phân tích. Đây chính là cơ sở của Friedman khi viết cuốn sách dự đoán về những sự kiện đầy bất ngờ sẽ xảy ra trong thế kỷ 21.
Friedman đưa ra các chỉ số nói lên khả năng tiếp tục thống trị của Mỹ – chủ yếu bởi nước Mỹ có vị trí trung tâm được bao quanh bởi hai đại dương lớn và hải Quân Mỹ có sự kiểm soát tối cao trên khắp các vùng biển thế giới. Chiến tranh vào cuối thế kỷ 21 sẽ là để tranh giành quyền kiểm soát không gian, nhưng Mỹ vẫn sẽ dẫn đầu, Friedman nhận định.
Xung đột tiếp tục nhưng không trên quy mô như hai cuộc thế chiến trước đây. Theo Friedman, nước Mỹ không thực sự quan tâm đến việc liệu nó có thắng khi tham chiến không. Mỹ chỉ quan tâm đến việc đảm bảo các quốc gia liên minh sẽ không thách thức nước này. Và Mỹ vẫn đang kiểm soát rất tốt tình hình.
Theo Friedman, chiến tranh giữa Mỹ và thế giới Hồi giáo sẽ gần như chấm dứt, không phải nhờ vị Tổng thống mới Barack Obama, mà bởi al-Qaeda sắp tan vỡ. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga sẽ xảy ra vào những năm 2020 nhưng khác với quy mô chiến tranh lạnh của thế kỉ trước.
Vào những năm 20, Friedman nhận định, Trung Quốc sẽ bị phân cách do các tỉnh nội địa của nó ngày càng nghèo hơn và các tỉnh ven biển sẽ giàu có hơn nhờ thương mại thế giới. Chính phủ cố gắng kiểm soát tình trạng này, tuy nhiên những khu vực ven biển sẽ nhận được sự hỗ trợ của các đối tác thương mại toàn cầu của họ.
Vào những năm 30, Mỹ sẽ đối diện với một cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ, trầm trọng hơn bởi lớp người trẻ đều nghỉ hưu và sự thiếu hụt dân số thế giới. Thay vì hạn chế nhập cư, Friedman dự đoán Mỹ sẽ trả tiền cho những người nhập cư. Ông lập luận Mỹ sẽ lại nổi lên mạnh mẽ hơn về tài chính sau khủng hoảng như tất cả những lần khủng hoảng trước đó.
Vào những năm 40, xuất hiện ba cường quốc mới là Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan, cũng giống như sự nổi lên của Đức, Ý, Nhật vào thế kỷ 19. Nhật sẽ nỗ lực kiểm soát Thái Bình Dương. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là nước mạnh nhất trong cộng đồng Hồi giáo và Ba Lan sẽ xây dựng lại phần Đông Âu sau khi Liên Bang Nga sụp đổ. Lợi ích của Mỹ lúc này bị đe dọa bởi Nhật và Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đến một cuộc thế chiến vào những năm 50.
Tuy nhiên, Friedaman cũng cho rằng, Thế chiến thứ 3 sẽ không xảy ra như hai cuộc thế chiến trước đây: Nó sẽ bắt đầu bằng những cuộc tấn công vào các trạm không gian của quân đội Mỹ
Mỹ sẽ trả đũa những cuộc tấn công đó bằng vũ khí siêu thanh. Sau khoảng hai năm chiến tranh, Mỹ và nước đồng minh Ba Lan cuối cùng giành được chiến thắng.
Sau chiến tranh, Mỹ sẽ bước vào một cuộc đột phá lớn về công nghệ, tương tự như những năm 1950 nhằm tìm cách ngăn chặn xảy ra chiến tranh.
Kết quả lớn nhất thu được là phát minh ra những công cụ khai thác năng lượng từ không gian. Những tiến bộ trong công nghệ rô bốt và những công nghệ khác cũng sẽ giúp đảm bảo vị trí thống trị của Mỹ.
Friedman xếp Mỹ vào quốc gia “chưa trưởng thành”, giống như một trẻ vị thành niên với một cuộc khủng hoảng bản sắc. Ông không có ý chê bai. Mà bởi Mỹ chỉ mới 200 tuổi, trong khi lịch sử của các quốc gia châu Âu và châu Á ghi niên đại đến hàng thế kỷ.
Không đưa ra những cái tên cụ thể, Friedman chọn ra một vài nhận định khoa học viễn tưởng và một vài thể loại khác để đưa vào những dự đoán của mình. Ví dụ, vũ khí đá mặt trăng được ông dự báo giống với Robert A. Heinlein trong cuốn “The Moon is a Harsh Mistress”. Ông cũng có cùng ý tưởng lấy năng lượng mặt trời từ không gian của Heinlein và Lee Correy.
Friedman kết luận, có thể trật tự địa chính trị sẽ bị hoán đổi một lần nữa, và kỷ nguyên của Mỹ sẽ kết thúc. Sức mạnh Mỹ thậm chí sẽ suy yếu sớm hơn nữa. Tuy nhiên chưa phải trong thế kỷ này.
Nhiều cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp quốc tế đăng ký dịch vụ của mạng nghiên cứu dự báo chiến lược Stratfor, chủ yếu bởi những dự đoán chính xác của Friedman. “100 next years” (tạm dịch: 100 năm tới) không kỳ vọng phải hoàn toàn chính xác. Friedman có ghi chú rằng “cái gì càng chi tiết thì càng nhiều khả năng sai.”
Friedman không khoe khoang, ông chỉ đưa những kiến thức địa chính trị của mình vào quả cầu pha lê tiên tri mà thôi. Dù sao khi xét lại những dự đoán chính xác trước đây của ông, thì những gì Friedman dự đoán vẫn rất đáng để lắng nghe.
Vừa rồi bạn nào quan tâm có thể thấy BáoĐấtViệt có đăng bài về sự dự đoán của George Friedman.Đọc mới nhớ lại là có ebook đó,nên hôm nay chia sẻ.Tuần Việt Nam đã đăng và điểm qua cuốn sách, giới thiệu nhiều góc nhìn qua một số bài viết và trích dịch những đoạn phân tích của Friedman.Có vẽ thú vị cho những ai thích khoa học viễn tưởng đấy.Nghe cứ như nhà tiên tri VanGa nhỉ
Download:Downloads
Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ liên minh chống Mỹ. Ngược lại, Ba Lan lại trở
thành đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Mexico giành được trung tâm thế giới, chiến tranh thế giới thứ III diễn ra trong không gian. Nghe có vẻ lạ ư? Tất cả đều có thể xảy ra…
Dù xuất bản từ khá lâu, “100 next years” của Friedman đưa ra những dự báo mạnh bạo nhưng có cơ sở rõ ràng vẫn được nhiều bạn đọc đánh giá cao.Vào năm 1492, Columbus dẫn đoàn thuyền đi về phía Tây. Năm 1991, Liên Xô tan rã. Cả hai sự kiện này tạo nên một thời đại của châu Âu.
Người Maya từng sống mà không quan tâm đến người Mông Cổ – những người không biết đến Zulus. Kể từ thế kỷ 15, những cường quốc châu Âu mở rộng quyền lực ra khắp thế giới, tạo nên một hệ thống địa chính trị toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử loài người, tính đến thời điểm mà số phận của những thổ dân Australia bị đặt dưới những chính sách của người Anh ở Ireland và giá bánh mỳ của Pháp phụ thuộc vào thời tiết ở Minnesota.
Châu Âu đồng thời tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài 500 năm với sự gia tăng của nạn bạo lực trong quần chúng, cho đến thế kỉ 20, khi chính Âu châu tự chia tách và đánh mất quyền kiểm soát thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, không còn quốc gia nào có thể xem là một cường quốc toàn cầu bậc nhất nữa.
Còn một sự kiện chưa từng có khác diễn ra khoảng một thập kỷ trước đó. Trong suốt 500 năm, quốc gia nào kiểm soát được Bắc Đại Tây Dương cũng đồng nghĩa với việc kiểm soát cửa ngõ ra thế giới của châu Âu, cùng với nó là kiểm soát thương mại toàn cầu.
Đến năm 1980, địa thương mại chuyển hướng khiến Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trở nên quan trọng không kém. Mọi cường quốc thông trực tiếp với hai đại dương này đều có được những lợi thế đặc biệt. Bắc Mỹ trở thành trục của hệ thống toàn cầu, và bất kì cường quốc nào thống trị Bắc Mỹ cũng trở thành trung tâm hấp dẫn. Tất nhiên, cường quốc đó chính là Mỹ.
Vị trí địa lý cùng với khả năng tận dụng nó tạo nên những lợi thế kể trên. Nhờ vị trí địa lý, nước Mỹ không bị đe dọa bởi những cuộc tấn công cả ở đất liền và trên biển. Tuy dễ bị tấn công khủng bố nhưng nó nằm ngoài tầm hạt nhân, không phải chịu bất cứ đe dọa nào như Anh và Pháp hồi năm 1940 – 41, hay như Đức và Nhật Bản năm 1944 – 45.
Một phần lợi thế của nó là nhờ đứng trung lập với những nước tham chiến khiến Mỹ thực sự được hưởng lợi từ Thế chiến thứ 2. Nhờ vậy, Mỹ nổi lên với nền tảng hiện đại hóa công nghiệp triệt để.
Lịch sử chứng minh có những điều người ta từng nghĩ là không thể thì hoàn toàn có thể xảy ra. Và nếu chú ý quan sát, có thể thấy tất cả những “điều không tưởng” kia đều có những nguồn gốc lịch sử và địa chính trị rõ ràng như phân tích. Đây chính là cơ sở của Friedman khi viết cuốn sách dự đoán về những sự kiện đầy bất ngờ sẽ xảy ra trong thế kỷ 21.
Friedman đưa ra các chỉ số nói lên khả năng tiếp tục thống trị của Mỹ – chủ yếu bởi nước Mỹ có vị trí trung tâm được bao quanh bởi hai đại dương lớn và hải Quân Mỹ có sự kiểm soát tối cao trên khắp các vùng biển thế giới. Chiến tranh vào cuối thế kỷ 21 sẽ là để tranh giành quyền kiểm soát không gian, nhưng Mỹ vẫn sẽ dẫn đầu, Friedman nhận định.
Xung đột tiếp tục nhưng không trên quy mô như hai cuộc thế chiến trước đây. Theo Friedman, nước Mỹ không thực sự quan tâm đến việc liệu nó có thắng khi tham chiến không. Mỹ chỉ quan tâm đến việc đảm bảo các quốc gia liên minh sẽ không thách thức nước này. Và Mỹ vẫn đang kiểm soát rất tốt tình hình.
Theo Friedman, chiến tranh giữa Mỹ và thế giới Hồi giáo sẽ gần như chấm dứt, không phải nhờ vị Tổng thống mới Barack Obama, mà bởi al-Qaeda sắp tan vỡ. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Nga sẽ xảy ra vào những năm 2020 nhưng khác với quy mô chiến tranh lạnh của thế kỉ trước.
Vào những năm 20, Friedman nhận định, Trung Quốc sẽ bị phân cách do các tỉnh nội địa của nó ngày càng nghèo hơn và các tỉnh ven biển sẽ giàu có hơn nhờ thương mại thế giới. Chính phủ cố gắng kiểm soát tình trạng này, tuy nhiên những khu vực ven biển sẽ nhận được sự hỗ trợ của các đối tác thương mại toàn cầu của họ.
Vào những năm 30, Mỹ sẽ đối diện với một cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ, trầm trọng hơn bởi lớp người trẻ đều nghỉ hưu và sự thiếu hụt dân số thế giới. Thay vì hạn chế nhập cư, Friedman dự đoán Mỹ sẽ trả tiền cho những người nhập cư. Ông lập luận Mỹ sẽ lại nổi lên mạnh mẽ hơn về tài chính sau khủng hoảng như tất cả những lần khủng hoảng trước đó.
Vào những năm 40, xuất hiện ba cường quốc mới là Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan, cũng giống như sự nổi lên của Đức, Ý, Nhật vào thế kỷ 19. Nhật sẽ nỗ lực kiểm soát Thái Bình Dương. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là nước mạnh nhất trong cộng đồng Hồi giáo và Ba Lan sẽ xây dựng lại phần Đông Âu sau khi Liên Bang Nga sụp đổ. Lợi ích của Mỹ lúc này bị đe dọa bởi Nhật và Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đến một cuộc thế chiến vào những năm 50.
Tuy nhiên, Friedaman cũng cho rằng, Thế chiến thứ 3 sẽ không xảy ra như hai cuộc thế chiến trước đây: Nó sẽ bắt đầu bằng những cuộc tấn công vào các trạm không gian của quân đội Mỹ
Mỹ sẽ trả đũa những cuộc tấn công đó bằng vũ khí siêu thanh. Sau khoảng hai năm chiến tranh, Mỹ và nước đồng minh Ba Lan cuối cùng giành được chiến thắng.
Sau chiến tranh, Mỹ sẽ bước vào một cuộc đột phá lớn về công nghệ, tương tự như những năm 1950 nhằm tìm cách ngăn chặn xảy ra chiến tranh.
Kết quả lớn nhất thu được là phát minh ra những công cụ khai thác năng lượng từ không gian. Những tiến bộ trong công nghệ rô bốt và những công nghệ khác cũng sẽ giúp đảm bảo vị trí thống trị của Mỹ.
Friedman xếp Mỹ vào quốc gia “chưa trưởng thành”, giống như một trẻ vị thành niên với một cuộc khủng hoảng bản sắc. Ông không có ý chê bai. Mà bởi Mỹ chỉ mới 200 tuổi, trong khi lịch sử của các quốc gia châu Âu và châu Á ghi niên đại đến hàng thế kỷ.
Không đưa ra những cái tên cụ thể, Friedman chọn ra một vài nhận định khoa học viễn tưởng và một vài thể loại khác để đưa vào những dự đoán của mình. Ví dụ, vũ khí đá mặt trăng được ông dự báo giống với Robert A. Heinlein trong cuốn “The Moon is a Harsh Mistress”. Ông cũng có cùng ý tưởng lấy năng lượng mặt trời từ không gian của Heinlein và Lee Correy.
Friedman kết luận, có thể trật tự địa chính trị sẽ bị hoán đổi một lần nữa, và kỷ nguyên của Mỹ sẽ kết thúc. Sức mạnh Mỹ thậm chí sẽ suy yếu sớm hơn nữa. Tuy nhiên chưa phải trong thế kỷ này.
Nhiều cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp quốc tế đăng ký dịch vụ của mạng nghiên cứu dự báo chiến lược Stratfor, chủ yếu bởi những dự đoán chính xác của Friedman. “100 next years” (tạm dịch: 100 năm tới) không kỳ vọng phải hoàn toàn chính xác. Friedman có ghi chú rằng “cái gì càng chi tiết thì càng nhiều khả năng sai.”
Friedman không khoe khoang, ông chỉ đưa những kiến thức địa chính trị của mình vào quả cầu pha lê tiên tri mà thôi. Dù sao khi xét lại những dự đoán chính xác trước đây của ông, thì những gì Friedman dự đoán vẫn rất đáng để lắng nghe.

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2010

Gỡ bỏ Windows XP SP 2 một cách an toàn

Phiên bản windows XP SP2 vừa tung ra thì lại bị lỗi bảo mật. Vả lại có quá nhiều chương trình xung đột không chạy sau khi updates. Những lý do trên có thể cho bạn lời khuyên là gở bỏ XP SP2. Bài viết này giúp bạn một số cách có thể gỡ bỏ Windows XP SP2 một cách nhanh chóng và suôn sẻ nhất.
Cách 1 : Sử dụng Recovery Console
Đầu tiên bạn dùng CD cài đặt WinXP để boot từ CD. Khi gặp màn hình thông báo cài đặt, bạn nhấn R để start Recovery Console. Tiếp tục bạn chọn câu hỏi. Lưu ý bạn phải chọn một số cụ thể trước khi nhấn phím

enter.
Ví dụ 1:C:\windows
Sau đó bạn điền vào password của admin. Điều này các bạn thường bỏ qua không thiết lập. Tuy nhiên nếu không biết, thì bạn cứ enter. Đừng cố nhớ, nếu bạn gõ sai bạn sẽ không thể tiếp tục. Tiếp theo tại dấu nhắc bạn gõ cd $ntservicepackuninstall$\spuninst. Nhấn Enter.
Tiếp theo bạn gõ tiếp spuninst.txt (để xem những danh sách những file đang thực thi). Sau khi quá trình remove hoàn tất, bạn gõ exit là restart lại máy tính ở chế độ safe mode ( nhấn F8 và chọn chế độ safe mode ).
Tuy nhiên nếu thấy màn hình đen thì bạn nên tắt nguồn và restart lại lần nữa. Khi đó bạn sẽ vào hệ thống được. Sau khi máy tính khởi động lại, windows Explorer (explorer.exe) sẽ không hoạt động, các icon đều biến mất, thay vào đó là những icon lạ hoắc không hình dạng. Để giải quyết trường hợp trên, bạn làm như sau. Nhấn CTRL + ALT + DEL để vào TASK MANAGER.
Chọn vào File > New Task, gõ regedit. Sau đó tìm đến từ khóa HKEY_LOCAL_MACHINE\System\CurrentControlSet\Services\RpcSs
Tạo mới một key mới là ObjectName với giá trị là LocalSystem. Nhấn Ok để hoàn tất. Khởi động lại máy tính.
Cách 2: Sử dụng System restore.
Để thực hiện bạn nhấn WIN + R để mở hộp thoại Run. Sau đó gõ vào %SystemRoot%\System32\restore\rstrui.exe.
Nhấn OK. Hộp thoại System Restore xuất hiện. Bạn chọn Restore My Computer To An Earlier Time. Nhấn Next. Chọn thời điểm bạn updates XP SP2. Nhấn Next và làm theo hướng dẫn trên màn hình để hoàn tất quá trình gở bỏ XP SP2. Restart lại máy tính.
Cách 3: Sử dụng công cụ Add or remove programs trong Control Panel
Nhấn Win + R. Hộp thoại run hiển thị ,bạn gõ vào appwiz.cpl. Nhấn OK để vào Add remove Programs (bạn cũng có thể vào danh sách chương trình cài đặt, khi đó bạn sẽ gặp ngay Windows XP Service Pack 2 trong Program list. Nhấn Remove để gở bỏ ra khỏi hệ thống).
Một vài lưu ý khi thiết lập
Cách 3 đơn giản nhất, tuy nhiên nếu chỉ trình bày cách 3 một cách riêng lẻ thì bạn sẽ gặp trường hợp như cách 1 là các icon không hiển thị. Do vậy cách giải quyết đã trình bày ở cách 1 .
Cách 1 chỉ áp dụng sau khi bước 2 và bước 3 thất bại. Trong trường hợp đó cách 1 vẫn là hiệu quả nhất và gom lại cả ba cách là có chung một giải pháp là đụng tới regedit. Do đó bạn nên sao lưu trước khi thiết lập…
Theo kinh nghiệm thì hoàn toàn không có việc gì xảy ra khi gở bỏ SP2. Ngoại trừ icon không hiển thị và cách giải quyết đều cho kết quả tốt đẹp
Phiên bản windows XP SP2 vừa tung ra thì lại bị lỗi bảo mật. Vả lại có quá nhiều chương trình xung đột không chạy sau khi updates. Những lý do trên có thể cho bạn lời khuyên là gở bỏ XP SP2. Bài viết này giúp bạn một số cách có thể gỡ bỏ Windows XP SP2 một cách nhanh chóng và suôn sẻ nhất.
Cách 1 : Sử dụng Recovery Console
Đầu tiên bạn dùng CD cài đặt WinXP để boot từ CD. Khi gặp màn hình thông báo cài đặt, bạn nhấn R để start Recovery Console. Tiếp tục bạn chọn câu hỏi. Lưu ý bạn phải chọn một số cụ thể trước khi nhấn phím

enter.
Ví dụ 1:C:\windows
Sau đó bạn điền vào password của admin. Điều này các bạn thường bỏ qua không thiết lập. Tuy nhiên nếu không biết, thì bạn cứ enter. Đừng cố nhớ, nếu bạn gõ sai bạn sẽ không thể tiếp tục. Tiếp theo tại dấu nhắc bạn gõ cd $ntservicepackuninstall$\spuninst. Nhấn Enter.
Tiếp theo bạn gõ tiếp spuninst.txt (để xem những danh sách những file đang thực thi). Sau khi quá trình remove hoàn tất, bạn gõ exit là restart lại máy tính ở chế độ safe mode ( nhấn F8 và chọn chế độ safe mode ).
Tuy nhiên nếu thấy màn hình đen thì bạn nên tắt nguồn và restart lại lần nữa. Khi đó bạn sẽ vào hệ thống được. Sau khi máy tính khởi động lại, windows Explorer (explorer.exe) sẽ không hoạt động, các icon đều biến mất, thay vào đó là những icon lạ hoắc không hình dạng. Để giải quyết trường hợp trên, bạn làm như sau. Nhấn CTRL + ALT + DEL để vào TASK MANAGER.
Chọn vào File > New Task, gõ regedit. Sau đó tìm đến từ khóa HKEY_LOCAL_MACHINE\System\CurrentControlSet\Services\RpcSs
Tạo mới một key mới là ObjectName với giá trị là LocalSystem. Nhấn Ok để hoàn tất. Khởi động lại máy tính.
Cách 2: Sử dụng System restore.
Để thực hiện bạn nhấn WIN + R để mở hộp thoại Run. Sau đó gõ vào %SystemRoot%\System32\restore\rstrui.exe.
Nhấn OK. Hộp thoại System Restore xuất hiện. Bạn chọn Restore My Computer To An Earlier Time. Nhấn Next. Chọn thời điểm bạn updates XP SP2. Nhấn Next và làm theo hướng dẫn trên màn hình để hoàn tất quá trình gở bỏ XP SP2. Restart lại máy tính.
Cách 3: Sử dụng công cụ Add or remove programs trong Control Panel
Nhấn Win + R. Hộp thoại run hiển thị ,bạn gõ vào appwiz.cpl. Nhấn OK để vào Add remove Programs (bạn cũng có thể vào danh sách chương trình cài đặt, khi đó bạn sẽ gặp ngay Windows XP Service Pack 2 trong Program list. Nhấn Remove để gở bỏ ra khỏi hệ thống).
Một vài lưu ý khi thiết lập
Cách 3 đơn giản nhất, tuy nhiên nếu chỉ trình bày cách 3 một cách riêng lẻ thì bạn sẽ gặp trường hợp như cách 1 là các icon không hiển thị. Do vậy cách giải quyết đã trình bày ở cách 1 .
Cách 1 chỉ áp dụng sau khi bước 2 và bước 3 thất bại. Trong trường hợp đó cách 1 vẫn là hiệu quả nhất và gom lại cả ba cách là có chung một giải pháp là đụng tới regedit. Do đó bạn nên sao lưu trước khi thiết lập…
Theo kinh nghiệm thì hoàn toàn không có việc gì xảy ra khi gở bỏ SP2. Ngoại trừ icon không hiển thị và cách giải quyết đều cho kết quả tốt đẹp